Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”[1,tr5], khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong định hướng phát triển tương lai”. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển Việt Nam mang trong mình những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí, khoáng sản; nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản; du lịch; Vì vậy, vấn đề tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi các nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng.
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9381 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề tài: Vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nayA. MỞ ĐẦU
1 lý do chọ đề tài
Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”[1,tr5], khai thác biển đã trở thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2015 dân số thế giới khoảng 7,5 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn trong định hướng phát triển tương lai”. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển Việt Nam mang trong mình những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí, khoáng sản; nuôi trồng và đánh bắt thủy - hải sản; du lịch; Vì vậy, vấn đề tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện hiện nay khi các nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng.
Đặc biệt nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, nêu rõ: “Phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển…có chính sách hấp dẫn nhằm thu hút mọi nguồn lực phát triển kinh tế biển… giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống của nhân dân vùng biển và ven biển”
Việt Nam nằm bên bờ Tây của Biển Đông - một biển lớn, quan trọng của khu vực và thế giới. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì Việt Nam không chỉ có phần lục địa nhỏ hẹp mà còn có cả vùng biển rộng lớn hơn 1 triệu km2, gấp hơn ba lần diện tích đất liền. “Bờ biển trải dài theo chiều dài của đất nước với khoảng 100 cảng biển, 48 vịnh lớn nhỏ và trên 112 cửa sông, cửa lạch đổ ra biển, trên lãnh hải vùng biển Việt Nam có hơn 3.000 đảo lớn, nhỏ với diện tích phần đất nổi trên mặt biển khoảng 1.636 km2”[2,tr159], được phân bố chủ yếu ở vùng biển Đông Bắc và Tây Nam với những đảo nổi tiếng về cảnh đẹp và có vị trí chiến lược như Bạch Long Vĩ, Phú quốc, Thổ Chu, Côn Sơn, Cồn Cỏ, Phú Quý, Cát Bà, Hoàng Sa, Trường Sa. Trải dài trên tuyến ven biển có 29 tỉnh, thành phố với 124 huyện, thị xã; 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Vì vậy, khai thác tiềm năng kinh tế trên biển và ven biển để phát triển kinh tế đất nước thật sự là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài và có tương lai to lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta
Thực tiễn các nước trên thế giới đã cho thấy kinh tế các vùng lãnh thổ, các địa bàn ven biển luôn đi đầu trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia có biển. chính vì vậy em chọn đề tài “ vận dụng cặp phạm trù khả năng và hiện thực để phân tích, làm rõ sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay”
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
“DẤU ẤN VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG” của tiến sỹ Trần Công Trục do nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông thuộc Bộ Thông tin và truyền thông phát hành
“HOÀNG SA, TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM” Nhà xuất bản Trẻ phát hành với các tác giả Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Nhã, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt
“BIỂN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM: QUÁ KHỨ, HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI” của PGS.TS. Vũ Văn Phái nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
-Mục đích nghiên cứu: làm rõ khả năng và hiện trạng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay từ đó đề xuất phương hướng giải pháp phát triển kinh tế biển đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh
-Nhiệm vụ nghiên cứu: phân tích làm rõ khả năng, thế mạnh và hiện trạng phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay
Quan điểm của Đảng về việc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển nước ta từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ, và gải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai
4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- đối tượng nghiên cứu:
Khả năng và hiện thực trong triết học Mác-lênin
Việc phát triển kinh tế biển nước ta trong giai đoạn hiện nay
-phạm vi nghiên cứu
+Về không gian: phạm vi nghiên cứu bao gồm toàn bộ vùng biển của nước ta
+Về thời gian: phạm vi nghiên cứu bắt đầu từ năm 2000 trở lại cho đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng Mac-lenin nói chung và cặp phạm trù khả năng và hiện thực nói riêng, và quan điểm của Đảng ta về việc phát triển kinh tế biển
- Phương pháp nghiên cứu: tiểu luận là dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, thống kê, đánh giá,
6. kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận bao gồm 3 phần: mở đầu, nội dung, danh mục tài liệu tham khảo, ngoài ra còn có trích dẫn và phục lục, trong phần nội dung tiểu luận bao gồm 3 chương 9 tiết.
B NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
1.1 KHÁI NIỆM KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
“Hiện thực là phạm trù chỉ những cái đang tồn tại trên thực tế. khả năng là phạm trù chỉ cái chưa xuất hiện, chưa tồn tại trên thực tế, nhưng sẽ xuất hiện, sẽ tồn tại thực sự khi có các điều kiện tương ứng”[3,tr222]
Khả năng là để chỉ cái hiện chưa có chưa tới nhưng sẽ tới sẽ có khi có các điều kiện thích hợp
Khả năng là “ cái hiện chưa có” nhưng bản thân khả năng với tư cách là “ cái chưa có” đó lại tồn tại. tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng được đề xuất hiện sự vật đó thì tồn tại
Ví dụ: trước mắt ta có đủ gỗ, cưa, bào, đục, đinh… đó là hiện thực. Từ đó nảy sinh khả năng xuất hiện một cái bàn. Trong trường hợp này sự vật này là chưa có, chưa tồn tại trên thực tế nhưng khả năng xuất hiện cái bàn thì tồn tại trên thực sự
Hiện thực là phạm trù triết hóc dùng để chỉ cái tồn tại thực sự, cái đã tới đã có, hiện thực bao gồm :
Hiện thực khách quan ( hay là vật chất ) tất cả những gì đang tồn tại độc lập với ý thức của con người.
Hiện thực chủ quan ( hiện tượng tinh thần) nó cũng tồn tại như tồn tại trong óc của con người; ví dụ như ý thức, tu duy
Như vậy dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực ở chỗ: khả năng là cái chưa có, còn hiện thực là cái hiện đang có, đang tồn tại
1.2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. điều đó có nghĩa là trong sự vật hiện tượng đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có nhưng điều kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động, phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất
Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó thể hiện ở chỗ cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng
Ví dụ: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, sau khin phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và khu vực đã nhận định rằng, đất nước ta hiện nay đang “ có cả cơ hội và thách thức lớn”, những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng “ tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực- nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị trường, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thách thức lơn đó là 4 nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và quan lieu, “ diễn biến hòa binh” do thế lực thù địch gây ra
Như vậy chúng ta thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất nhiều khả năng( cả thuận lợi, lẫn khó khăn) phát triển đất nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải thừa nhận thức rõ để chủ động tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức đưa đất nước vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện
Ví dụ : nước ra vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh trang quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi mua bán càng lớn.
Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện thực, có thể điều khiền khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. không thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiejn khách quan. Như vậy chúng ta rễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm duy ý chí
1.3 Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để sinh ra chủ trương, phương hướng hành động của mình
V.I Lê-nin cho rằng: “ chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng. Người macxit chỉ có thể sử dụng, để làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được”[4,tr226]
Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn
Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đế việc phát huy nguồn lực con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là : tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực
CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 KHẢ NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TRONG NÔNG NGHIỆP
2.1.1 Trong đánh bắt
2.1.1.1 khả năng
Diện tích mặt biển nước ta rộng tới hơn 1 triệu km2 chính vì vậy nguồn lợi đánh bắt hải sản nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. “Ngoài cá biển là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển… Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2.000 loài khác nhau, trong đó trên 100 loài có giá trị kinh tế cao với tổng trữ lượng hải sản khoảng 3- 4 triệu tấn, khả năng cho phép khai thác 1,5- 1,8 triệu tấn/năm”[5,tr30]. Đến nay đã xác định 15 bãi cá lớn quan trọng, trong đó 12 bãi cá phân bố ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi
Cùng với đó là nguồn nhân lực nước ta dồi dào, đặc biệt là vùng biển nước ta, đa số là những người ở độ tuổi đang lao động, cộng với kinh nghiệm đi biển lâu đời. Với tiềm năng như vậy đánh bắt thủy hải sản thực sự có thể đem lại nguồn lợi vô cùng quan trọng cho đất nước
2.1.1.2 hiện trạng
Đánh bắt hải sản là nghề biển truyền thống có thế mạnh của nước ta, là lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện ba mục tiêu chiến lược phát triển ngành thủy sản Việt Nam, đó là: khai thác tiềm năng nguồn lợi hải sản tạo sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển; đảm bảo sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển. Từ năm 1993, sau khi thuỷ sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, nghề đánh bắt thuỷ sản đã có những bước phát triển đáng kể. Trong giai đoạn 1995-2005, sản lượng thuỷ sản tăng bình quân 7,7%/năm, sản lượng khai thác tăng bình quân 5%/năm, tính riêng trong năm 2011 giá trị sản lượng đánh bắt thủy hải sản của nước ta đạt khoảng 2,4 triệu tấn so với năm năm 1990 chỉ đạt 728 nghìn tấn hiện nay nước ta đã hình thành 4 ngư trường lớn trọng điểm đã được xác định đó là : “ngư trường Cà Mau – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh, ngư trường Hoàng Sa – Trường Sa”[6,tr100], sản lượng thủy hải sản đánh bắt được hàng năm ngoài đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước còn là nguyên liệu quan trọng trong ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu sang nước ngoài. Đánh bắt hải sản đã tạo việc làm cho hơn 5 vạn lao động đánh cá trực tiếp và 10 vạn lao động dịch vụ nghề cá. Số lượng tàu thuyền cũng tăng đều đặn qua các năm, theo thống kê trong khoảng 15 năm (1990 - 2005), tàu cá Việt Nam tăng 4,7 lần về số lượng (95.000 chiếc năm 2005 so với 41.000 chiếc năm 1990) và 5,7 lần về công suất, bình quân công suất đã vượt quá 60 CV/tàu (so với công suất bình quân 18 CV/tàu năm 1991 và 44 CV/tàu năm 2000). Tuy nhiên, nghề khai thác hải sản của Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn và bất cập.
Sự dễ dãi tiếp cận khai thác nguồn lợi hải sản, những bất cập trong quản lý, kiểm soát khai thác và những hạn chế về tài chính, đội tàu cá Việt Nam được đầu tư phát triển theo phong trào, thiếu quy hoạch, tập trung tăng về công suất máy đẩy và tăng về số lượng dẫn đến, sau gần vài thập kỷ tập trung khai thác, nguồn lợi hải sản đã có những biến động đáng kể về mật độ sản lượng, chủng loài, kích thước… đặc biệt vùng biển ven bờ, tập trung trên 80% tổng số phương tiện nghề cá, sản lượng khai thác hằng năm chiếm từ 70 -80% tổng sản lượng hải sản của cả nước. Ba ngư trường trọng điểm là Hải Phòng-Quảng Ninh, Ninh Thuận-Bình Thuận và Cà Mau-Kiên Giang, những khu vực tập trung trên 50% tổng số phương tiện nghề cá tham gia đánh bắt hàng năm, qua kết quả khảo sát, mật độ sản lượng đều giảm. Cùng với những thay đổi về sản lượng, chủng loài hải sản cũng biến động đáng kể về mật độ, kích cỡ và ngày càng có nhiều loài trở thành quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng suất, sản lượng khai thác của nhiều nhóm nghề (khai thác cá nổi nhỏ ven bờ, cá đáy, câu cá rạn…), đồng thời tăng thời gian khai thác thực tế trên biển, thời gian tìm kiếm ngư trường, chi phí, giá thành sản phẩm… Thống kê gần đây cho thấy dấu hiệu dư thừa cục bộ phương tiện đánh bắt hải sản đã xuất hiện, công suất huy động tàu tham gia đánh bắt giảm dần, có tàu chỉ huy động khoảng 50% thời gian hoạt dộng (khai thác cá nổi, tôm biển…)
Nghề cá biển thuộc nhóm nghề vất vả, tai nạn luôn rình rập, đặc biệt đối với những quốc gia nằm trong khu vực thường chịu tác động của các hiện tượng thời tiết bất thường như Việt Nam. Môi trường hoạt động khai thác hải sản rất khắc nghiệt, song đội tàu cá lại chưa được đầu tư tương thích. Trong khoảng 95.000 phương tiện nghề cá hiện nay, loại dưới 50 CV và thuyền thủ công có khoảng 64.500 chiếc, chiếm 68%, số tàu cá lắp máy từ 90 CV trở lên có khoảng 13.600 chiếc, chiếm khoảng 14,3%. Cơ cấu đội tàu cá Việt Nam hiện nay, xét về sự tương thích với ngư trường, với nguồn lợi hải sản cho thấy không có sự bất cập lớn, song chất lượng kém của vỏ, máy, các thiết bị an toàn hàng hải đã hạn chế thời gian hoạt động hữu ích trong năm. Từ năm 1997, thực hiện Chương trình đánh bắt cá xa bờ, Nhà nước đã đầu tư 1.300 tỷ đồng đóng 1.292 chiếc tàu đánh bắt xa bờ, tuy nhiên cho đến nay Chương trình này bị đánh giá là không hiệu quả.
Ngoài ra, chất lượng đội tàu, lao động trên tàu còn nhiều bất cập nên số vụ tai nạn tàu cá trên biển có xu hướng ngày càng tăng. Thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 15 năm gần đây, mỗi năm trên các vùng biển xảy ra khoảng 500 vụ tai nạn tàu cá, gây thiệt hại đáng kể về người và tài sản, chỉ riêng ba tháng cuối năm 2006 và hai tháng đầu năm 2007 có gần 400 vụ, trong đó hơn 50% vụ tàu bị hỏng máy, vỏ bị phá nước. Bên cạnh đó, tàu cá bị các nước trong khu vực bắt, bị cướp biển trong những năm gần đây là vấn đề phức tạp, không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ láng giềng giữa Việt Nam và các quốc gia vùng biển giáp ranh, mà tác động trực tiếp đến tâm lý ngư dân tham gia đánh bắt hải sản. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ 1999 đến 2002 cả nước đã có 274 tàu thuyền bị các nước lân cận bắt. Những vất vả vốn có của nghề đánh bắt hải sản và những thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của đất nước đã tác động không nhỏ đến nghề đánh bắt hải sản, đòi hỏi nghề này sớm được cải thiện để phát triển bền vững.
2.1.2 Trong nuôi trông
2.1.2.1 khả năng
Với diện tích mặt biển rộng tới hơn 1 triệu km2 và với 3260km bờ biển thì nước ta hoàn toàn có thể phát triển nuôi trồng thủy hải sản thêm nữa là vùng biển nước ta năm trong vùng khí hậu nhiệt đới cho nên biển nước ta còn có hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái đảo, hệ sinh thái bờ đá… trong các dạng hệ sinh thái này, tính đa dạng sinh học rất cao, tiềm năng nuôi trồng thủy hải sản nước lợ, nước mặn trong các vùng cửa sông, đầm phá, vũng vịnh là rất lớn trong đó tiềm năng diện tích nuôi trồng thủy hải sản nước ta ước tính đạt 2 triệu km2 và dọc ven biển có trên 37 vạn héc ta mặt nước các loại có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn - lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như tôm, cua, rong câu… Riêng diện tích nuôi tôm nước lợ có tới 30 vạn ha. Ngoài ra còn hơn 50 vạn ha các eo vịnh nông và đầm phá ven bờ như Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Phá Tam Giang, Vịnh Văn Phong… là môi trường rất thuận lợi để phát triển nuôi cá và đặc sản biển. Với tiềm năng trên, trong tương lai có thể phát triển mạnh ngành nuôi, trồng hải sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại với sản lượng hàng chục vạn tấn/ năm.
2.1.2.2 hiện trạng
Bên cạnh đánh bắt hải sản, nuôi trồng hải sản cũng đem lại nhiều giá trị cao về kinh tế, tính tổng giá trị nuôi trồng thủy hải sản nước ta năm 1990 chỉ đạt 162 nghìn tấn ,thì đến năm 2005 tổng sản lượng giá trị đạt 1478 nghìn tấn, và ước tính tổng sản lượng nuôi trồng thủy hải sản nước ta năm 2011 đạt tới 2,5 triệu tấn. Cùng với đó giống loài thủy sản nuôi phong phú, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm hùm, cá song, cá giò, cá cam, cá hồng, cá đù đỏ, cua, ghẹ, hải sâm, bào ngư, nuôi trai lấy ngọc, nuôi ngao, nghêu, hầu, trồng rong sụn, nuôi sứa đỏ và san hô...
Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản ở biển với nhiều hình thức đa dạng. Nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng hải sản trên b