Đề tài Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

1. Đặt vấn đề: Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Với chính sách mở cửa có nguyên tắc và đường lối phát triển nền kinh tế xã hội theo cấu trúc 5 thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, đã và đang tạo ra những điều kiện tiền đề rất cơ bản cho quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1989) đến nay,trong hơn một thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành quả rất quan trọng và cơ bản. Tuy nhiên, nghiêm túc mà nói thành quả đạt được chưa thật vững chắc. Hoạt động của nền kinh tế đã bắt đầu bộc lộ một số vấn đề khá cơ bản cần bàn, nghiên cứu và tìm hướng khắc phục. Nổi bật là vấn đề quản lý kinh tế. Quá trình đổi mới nền kinh tế về thực chất là quá trình thay đổi cơ chế quản lý. Là quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý hành chính, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang hoạt động theo cơ chế quản lý kinh tế hiện đại, vận động theo cơ chế thị trường, lấy thị trường làm tiêu điểm cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Việc chậm đưa công nghệ quản lý kinh tế hiện đại vào hoạt động thực tiễn chính là nguyên nhân cơ bản làm giảm thành quả đạt được trong thời gian qua, làm chậm quá trình đổi mới và phát triến nền kinh tế đất nước. Hoạt động của ngành Ngân hàng Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh chung của nền kinh tế, hiện cũng đang vấp phải những vấn đề bức xúc của quá trình phát triển mà nguyên nhân của nó cũng không ngoài vấn đề chậm đưa công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó đã hạn chế phần lớn đến kết quả đạt được cũng như định hướng hoạt động trong thời gian tới của toàn ngành Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, viết gọn là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (viết tắt là NHNOVN) là một ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam, cũng nằm trong tình trạng chung trên đây của toàn ngành ngân hàng và của nền kinh tế đất nước. Như vậy, công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại thực sự là một vấn đề lớn, cấp thiết cần được nghiên cứu và vận dụng vào hoạt động thực tiễn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam. Xuất phát từ cách đặt vấn đề trên, tác giả đã chọn và triển khai nghiên cứu đề tài: "VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY". 2. Mục đích nghiên cứu: Một là: Luận giải công nghệ quản lý kinh tế hiện đại là một quá trình quản lý mang tính xã hội và vai trò của nó đối với việc phát triển nền kinh tế đất nước.Từ đó thấy được vai trò của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đối với yêu cầu đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Hai là: Từ nội dung công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đối chiếu với hoạt động thực tiễn quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, từ đó rút ra những mặt làm được và chưa làm được so với yêu cầu của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại. Ba là :Đề xuất một số giải pháp vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: • Đối tượng: Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại • Phạm vi nghiên cứu:Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và • Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại.  Phạm vi vận dụng: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.  Thời gian: Từ nay đến những năm đầu của thế kỷ 21  Giới hạn:  * Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và công nghệ quản lý ngân  hàng hiện đại vận dụng cho các doanh nghiệp và ngân hàng  thương mại.  Khi nghiên cứu công nghệ quản lý hiện đại không nghiên cứu về mặt kỹ thuật như vi tính, thông tin. coi đó như là các yếu tố vật chất tự nhiên cần và có trong quá trình nghiên cứu.  Chỉ nghiên cứu trong phạm vi nội dung công nghệ quản lý,còn các kỹ thuật chi tiết của công nghệ quản lý không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu: • Duy vật biện chứng. • Duy vật lịch sử. • Tư duy logic. • Phân tích thống kê. • Phân tích kinh tế. • Xử lý hệ thống. 5. Đề và kết cấu của bài viết: • Đề của bài viết: "Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay". • Kết cấu của bài viết bao gồm:  PHẦN MỞ ĐẦU.  Ba chương: Chương 1: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI Chương 2: NỘI DUNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI Chương 3: VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.  PHẦN KẾT LUẬN.

doc156 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề: Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Với chính sách mở cửa có nguyên tắc và đường lối phát triển nền kinh tế xã hội theo cấu trúc 5 thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, đã và đang tạo ra những điều kiện tiền đề rất cơ bản cho quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1989) đến nay,trong hơn một thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành quả rất quan trọng và cơ bản. Tuy nhiên, nghiêm túc mà nói thành quả đạt được chưa thật vững chắc. Hoạt động của nền kinh tế đã bắt đầu bộc lộ một số vấn đề khá cơ bản cần bàn, nghiên cứu và tìm hướng khắc phục. Nổi bật là vấn đề quản lý kinh tế. Quá trình đổi mới nền kinh tế về thực chất là quá trình thay đổi cơ chế quản lý. Là quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý hành chính, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang hoạt động theo cơ chế quản lý kinh tế hiện đại, vận động theo cơ chế thị trường, lấy thị trường làm tiêu điểm cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Việc chậm đưa công nghệ quản lý kinh tế hiện đại vào hoạt động thực tiễn chính là nguyên nhân cơ bản làm giảm thành quả đạt được trong thời gian qua, làm chậm quá trình đổi mới và phát triến nền kinh tế đất nước. Hoạt động của ngành Ngân hàng Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh chung của nền kinh tế, hiện cũng đang vấp phải những vấn đề bức xúc của quá trình phát triển mà nguyên nhân của nó cũng không ngoài vấn đề chậm đưa công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của mình. Điều đó đã hạn chế phần lớn đến kết quả đạt được cũng như định hướng hoạt động trong thời gian tới của toàn ngành Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, viết gọn là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (viết tắt là NHNOVN) là một ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam, cũng nằm trong tình trạng chung trên đây của toàn ngành ngân hàng và của nền kinh tế đất nước. Như vậy, công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại thực sự là một vấn đề lớn, cấp thiết cần được nghiên cứu và vận dụng vào hoạt động thực tiễn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam. Xuất phát từ cách đặt vấn đề trên, tác giả đã chọn và triển khai nghiên cứu đề tài: "VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY". 2. Mục đích nghiên cứu: Một là: Luận giải công nghệ quản lý kinh tế hiện đại là một quá trình quản lý mang tính xã hội và vai trò của nó đối với việc phát triển nền kinh tế đất nước.Từ đó thấy được vai trò của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đối với yêu cầu đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Hai là: Từ nội dung công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đối chiếu với hoạt động thực tiễn quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, từ đó rút ra những mặt làm được và chưa làm được so với yêu cầu của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại. Ba là :Đề xuất một số giải pháp vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng: Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại Phạm vi nghiên cứu:Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại. Phạm vi vận dụng: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Thời gian: Từ nay đến những năm đầu của thế kỷ 21 Giới hạn: * Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vận dụng cho các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại. Khi nghiên cứu công nghệ quản lý hiện đại không nghiên cứu về mặt kỹ thuật như vi tính, thông tin... coi đó như là các yếu tố vật chất tự nhiên cần và có trong quá trình nghiên cứu. Chỉ nghiên cứu trong phạm vi nội dung công nghệ quản lý,còn các kỹ thuật chi tiết của công nghệ quản lý không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu: Duy vật biện chứng. Duy vật lịch sử. Tư duy logic. Phân tích thống kê. Phân tích kinh tế. Xử lý hệ thống... 5. Đề và kết cấu của bài viết: Đề của bài viết: "Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay". Kết cấu của bài viết bao gồm: PHẦN MỞ ĐẦU. Ba chương: Chương 1: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI Chương 2: NỘI DUNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI Chương 3: VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. PHẦN KẾT LUẬN. Chương 1 QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI Sự ra đời và phát triển của khoa học quản lý kinh tế gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và sự phát triển của xã hội loài người. Chính vai trò to lớn của quản lý kinh tế là cơ sở để tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này đó là: công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là một ngành kinh tế đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.Ngành Ngân hàng là một trong nhiều ngành kinh tế quan trọng của toàn bộ hoạt động nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, trước khi tìm hiểu nội dung của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại và vận dụng chúng trong thực tiễn cần phải tìm hiểu về quản lý kinh tế, đặc biệt là những vấn đề cơ bản của công nghệ quản lý kinh tế hiện đại có liên quan đến công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại. Đó là nội dung chính cần làm rõ ở chương này. 1.1. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.[9,9-21] 1.1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ. Có nhiều dạng quản lý, nói cụ thể là có nhiều đối tượng cần quản lý. Từ quản lý giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ quản lý kinh tế đến quản lý xã hội. Bài viết này chỉ quan tâm đến lĩnh vực quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế có các đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất: Quản lý kinh tế được phân chia thành hệ thống quản lý và hệ thống bị quản lý (sự phân chia này chỉ là tương đối và trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nó có thể thay đổi vị trí cho nhau). Thứ hai: Quản lý phải có khả năng thích ứng với môi trường hoạt động. Thứ ba: Quản lý luôn liên quan đến vấn đề trao đổi thông tin giữa hệ thống này với hệ thống khác và trong nội bộ mỗi hệ thống. Thứ tư: Quản lý có mối quan hệ hai chiều trong lĩnh vực thông tin,có nghĩa là trong bất kỳ một hệ thống quản lý nào khi truyền đạt thông tin đi thì nó sẽ phải thu được thông tin phản hồi. Nếu mất thông tin phản hồi thì hệ thống quản lý đó coi như không còn giá trị. SƠ ĐỒ CHUNG CỦA QUẢN LÝ (Theo quan điểm điều khiển học) Chủ thể quản lý phát ra mệnh lệnh quản lý dưới dạng thông tin, đối tượng quản lý tiếp nhận thông tin và có thông tin phản hồi cho chủ thể quản lý biết được các yêu cầu cần thiết từ việc xử lý thông tin đến để có thông tin phản hồi. Từ các đặc trưng cơ bản của quản lý nêu trên,có rất nhiều cách khác nhau định nghĩa về quản lý kinh tế. Tuy nhiên, định nghĩa sau đây thường được dùng hơn cả: Quản lý kinh tế là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm duy trì sự phát triển của hệ thống kinh tế. Sử dụng một cách hiệu quả nhất các tiềm năng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ hội của hệ thống kinh tế để đưa hệ thống đến mục tiêu dự định một cách tốt nhất trong sự biến động không ngừng của môi trường hoạt động kinh tế. Quản lý diễn ra trước hết như là một quá trình tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Tuy nhiên,việc phân biệt giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý chỉ là ước lệ vì nhiều khi chủ thể quản lý lại trở thành đối tượng quản lý và ngược lại. Muốn xác định chủ thể quản lý phải đặt chúng vào từng môi trường hoàn cảnh cụ thể. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý được xây dựng theo qui tắc mối liên hệ qua lại. Điều đó có nghĩa là: Đối tượng quản lý không chỉ chịu sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý, mà nó còn vận động và phát triển theo những qui tắc vốn có của nó và từ đó tác động lại chủ thể quản lý. Tùy theo nội dung, hình thức và phương pháp quản lý sẽ dẫn đến kết quả quản lý nhất định. Tóm lại, hiệu quả của quản lý do tính chất của mối quan hệ qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý quyết định. Quản lý có thể được xem xét về phương diện tĩnh là cơ cấu quản lý hay về phương diện động là quá trình quản lý. - Cơ cấu quản lý là các bộ phận của hoạt động quản lý. - Quá trình quản lý là quá trình hoạt động của cơ cấu quản lý. Khi xem xét quá trình quản lý có thể phân tích trên nhiều mặt như về nội dung: Làm gì ? Về tổ chức: Ai làm, làm theo trình tự nào ? Và về công nghệ: Làm như thế nào ?. Điều cần lưu ý khi nghiên cứu về quản lý là: quản lý kinh tế vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Quản lý đã có từ lâu trong lịch sử tồn tại và phát triển của loài người. Nhưng trước đây người ta thường phủ nhận tính khoa học của quản lý kinh tế và đặc biệt là tính nghệ thuật của nó.Người ta cho rằng yếu tố quyết định trong thắng lợi của quản lý đó là tài năng của người quản lý.Vậy tính khoa học của quản lý được thể hiện ở chỗ nào ? Trong quản lý có những nguyên tắc ổn định và bền vững mà chủ thể quản lý cần nắm bắt, nghiên cứu và vận dụng chúng cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp. Ngoài ra quản lý kinh tế luôn liên quan đến hoạt động của con người có ý thức, có nhận thức về hành động của mình trong sự tồn tại vói cộng đồng xã hội. Tính khoa học của quản lý đòi hỏi việc quản lý kinh tế phải dựa trên sự hiểu biết sâu sắc các qui luật khách quan, không chỉ các qui luật về kinh tế mà còn cả các qui luật xã hội,qui luật tự nhiên... chứ không phải chỉ dựa trên kinh nghiệm hay trực giác của chủ thể quản lý. Mặc dù kinh nghiệm có được cũng chính là kết quả của quá trình nhận thức qui luật khách quan mà có. Muốn quản lý kinh tế một cách khoa học đòi hỏi phải có tầm nhìn toàn diện và đồng bộ các hoạt động của doanh nghiệp. Quản lý kinh tế không chỉ giới hạn về những vấn đề liên quan đến kinh tế mà cả những vấn đề liên quan khác như về tâm sinh lý con người, các qui luật xã hội, qui luật tự nhiên... Cả về công nghệ, kỹ thuật và môi trường. Tính khoa học của quản lý còn được hỗ trợ bởi các kỹ thuật và công nghệ hiện đại mà con người sáng tạo và phát minh ra. Từ các công cụ này, chủ thể quản lý có thể khẳng định các quyết định quản lý của mình là có căn cứ khoa học. Tính nghệ thuật của quản lý có thể tìm được những nguyên tắc chung,thường là qui ước và mang tính kinh nghiệm chủ nghĩa. Nghệ thuật trong quản lý kinh tế là "biết làm thế nào" để đạt được một kết quả cụ thể. Nghệ thuật quản lý kinh tế liên quan mật thiết đến các quyết định riêng có của chủ thể quản lý nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong cùng một điều kiện nhất định có nhiều giải pháp đúc kết và rút ra từ qui luật. Chẳng hạn trong quản lý kinh tế, việc khuyến khích bằng lợi ích vật chất là quan trọng (điều này có tính qui luật). Tuy nhiên, chủ thể quản lý vận dụng yếu tố này vào thời điểm nào, mức độ bao nhiêu và bằng phương pháp nào để tạo nên kết quả mong muốn lại mang tính nghệ thuật. Có thể thưởng trực tiếp cho nhân viên 100.000đ, hay nhân dịp sinh nhật của người nhân viên "tặng" cho họ số tiền được thể hiện bằng một kỷ vật nào đó thì người nhân viên rất khó quên và năng lực làm việc, mức độ trung thành với doanh nghiệp đạt được nhiều khi vượt xa so với mức độ thưởng trực tiếp. Điều cần nhấn mạnh là để có tính nghệ thuật trong quản lý kinh tế thì chủ thể quản lý phải nắm bắt được tính khoa học của quản lý, cũng có nghĩa là tính nghệ thuật của quản lý được bắt nguồn từ tính khoa học của quản lý nhưng nó "linh diệu" hơn, nâng quản lý lên thành mức "nghệ thuật", "nghệ thuật" đến mức nhiều người đều biết nhưng chỉ có chủ thể quản lý đó ra được quyết định hành động như vậy mà thôi. Có những qui luật nhiều người cùng nhận thấy, nhưng nghệ thuật quản lý đòi hỏi chủ thể quản lý cần phải nắm bắt được những qui luật "ẩn" không chỉ thuộc qui luật kinh tế và vận dụng chúng cho linh hoạt. Như ví dụ trên, việc tặng quà sinh nhật của chủ thể quản lý không phải là hành động ngẫu nhiên mà có chủ định,ngoài việc vận dụng qui luật trong kinh tế còn tính toán dựa vào qui luật tâm sinh lý của con người. Như vậy có thể khẳng định: nghệ thuật quản lý kinh tế là sự phát triển của tính khoa học trong quản lý. Điều đó cũng có nghĩa là nghệ thuật quản lý không hoàn toàn là chủ nghĩa kinh nghiệm trong quản lý kinh tế. 1.1.2. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. Quản lý kinh tế là một phạm trù liên quan trực tiếp đến sự ra đời của quá trình hợp tác và phân công lao động xã hội. Quản lý là kết quả tất yếu của quá trình kết hợp nhiều lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình lao động xã hội được phối kết hợp lại. C.Mác cho rằng: "Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một qui mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu thì tự mình điều khiển lấy mình, nhưng một giàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng"[9,9]. Như vậy chức năng quản lý là sự kết hợp một cách hợp lý các yếu tố cơ bản của sản xuất, là việc tạo lập một quá trình ăn khớp giữa những cá thể lao động riêng biệt. Rõ ràng hoạt động quản lý không thực hiện thì quá trình sản xuất, quá trình hợp tác không thể diễn ra được. Những nhân tố sau đây làm tăng vai trò của quản lý kinh tế: Nhân tố thứ nhất: Tính chất và qui mô của sản xuất. Chừng nào qui mô của hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh chưa lớn lắm thì quản lý chưa cần phải có những yêu cầu đặc biệt. Qui mô sản xuất kinh doanh càng mở rộng và phát triển thì chức năng quản lý càng trở nên phức tạp và vai trò của nó càng trở nên rõ nét trong hoạt động của doanh nghiệp. Điều này đặc biệt đúng trong nền kinh tế hiện đại ngày nay. Nhân tố thứ hai: Vai trò của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã bảo đảm cho sự phát triển của nhân loại những nguồn lợi to lớn về vật chất. Từ đổi mới kỹ thuật đến đổi mới công nghệ và việc áp dụng những thành tựu mới của kỹ thuật cho phép đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn.Nhưng điều đó có được trước hết nhờ đổi mới công nghệ quản lý, chính công nghệ quản lý tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu không có tầm nhìn, tính khoa học sáng tạo trong quản lý thì kỹ thuật mới, công nghệ mới chỉ là sự phát triển trên giấy mà thôi. Công nghệ quản lý kinh tế thực sự là điều kiện mở đường cho khoa học kỹ thuật phát triển, trở thành hiện thực trong các quyết định về kinh tế và là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp. Nhân tố thứ ba: Nhân tố về chính trị, xã hội. Quản lý làm cho sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao. Mà "dân giầu, nước mạnh" đó là qui luật tất yếu, những tiêu cực trong cuộc sống được giảm thấp, xã hội ngày một văn minh hơn. Chính quản lý là tiền đề cho việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Quản lý có vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế, nhưng vai trò của nó trong các doanh nghiệp còn quan trọng hơn nhiều. Người ta không thể xác định chính xác được mức độ tác động cụ thể của quản lý đối với thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Nhiều người cho rằng không cần xác định mức độ cụ thể vì không có quản lý hoặc quản lý yếu kém thì sự tồn tại của doanh nghiệp đó xét theo giác độ thời gian chỉ còn là tạm thời mà thôi. Vậy quản lý có vai trò như thế nào trong sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp ? Thứ nhất: Quản lý vạch ra định hướng kinh doanh. Lĩnh vực kinh doanh cũng giống như người đi đường, nếu không đi đúng hướng thì không tới đích. Quản lý có vai trò to lớn đối với các doanh nghiệp trước hết ở chỗ xác định hướng đi cho doanh nghiệp. Việc xác định hướng kinh doanh đúng giúp cho doanh nghiệp gặp thuận lợi ngay từ bước khởi đầu.Hơn thế, làm cho doanh nghiệp tự tin hơn trong bước đường kinh doanh của mình. Thứ hai: Quản lý tạo ra sự tiết kiện chi phí, tăng lợi nhuận. Là nhà kinh doanh ai cũng muốn tiết kiệm để tạo ra nhiều lợi nhuận cho đơn vị. Nhưng để làm điều đó bằng cách nào ? Quản lý tốt chính là công cụ để thực hiện mục tiêu đó. Vì quản lý tốt cho phép giảm bớt những thất thoát vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra quản lý tốt còn có khả năng làm giảm bớt những lãng phí vô hình, không cần thiết trong quá trình kinh doanh. Đó là sự kết hợp một cách khoa học các bộ phận trong dây chuyền sản xuất kinh doanh sao cho chúng ăn khớp với nhau tránh lãng phí thời gian cũng như những lãng phí vô hình khác của doanh nghiệp. Thứ ba: Quản lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển ổn định và vững chắc. Ngày nay cách mạng khoa học kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc đưa khoa học kỹ thuật vào thực tế luôn đòi hỏi một sự sàng lọc, tính toán chặt chẽ nhằm đảm bảo không để xảy ra sự hao mòn vô hình quá nhanh,mặt khác cũng không được vượt quá mức khả năng tài chính cho phép của doanh nghiệp. Những yêu cầu này được giải quyết thông qua công tác quản lý. Không thể kể hết lợi ích mà quản lý đem lại cho doanh nghiệp. Chính vì quản lý có vai trò quan trọng như vậy, nên thông qua việc nghiên cứu về quản lý để từ đó xác định được cách thức quản lý tối ưu là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng là một ngành kinh tế,cho nên hoạt động quản lý của ngân hàng cũng không thoát ly được các vấn đề cơ bản của quản lý kinh tế nêu trên. Việc nghiên cứu công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại dưới đây cũng phải dựa vào những vấn đề cơ bản đó để luận giải các vấn đề liên quan. 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ.[47, 7-43] 1.2.1. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ. Trước thế kỷ 16, việc sản xuất kinh doanh chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp là phổ biến nên vấn đề quản lý chưa được quan tâm nghiên cứu và áp dụng. Phải đến cuối thế kỷ 16, khi các hoạt động thương mại, đặc biệt ở khu vực Địa Trung Hải được mở rộng thì sản xuất kinh doanh mới bắt đầu phát triển,cùng với nó là sự đòi hỏi phải nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và việc nghiên cứu về quản lý mới được đặt ra. Nhưng phải tới thế kỷ 18 với nhiều phát minh và sáng chế mới được con người tạo ra trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là việc phát minh ra động cơ hơi nước đưa đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất ở Châu Âu. Nền sản xuất kinh doanh được phát triển cả về phạm vi và qui mô hoạt động thì vấn đề về quản lý mới thực sự là một đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên phải tới những năm cuối của thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19,các tư tưởng về quản lý mới được sắp xếp thành hệ thống và được nghiên cứu một cách khoa học. Và phải tới cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất hiện các trường phái nghiên cứu về khoa học quản lý. Trong thế kỷ 20 là giai đoạn bùng nổ các trường phái nghiên cứu về quản lý. Có rất nhiều trường phái khác nhau nhưng tựu trung có một số các trường phái chủ yếu sau: - Trường phái cổ điển. - Trường phái tác phong. - Trường phái hệ thống. - Trường phái định lượng. - Các trường phái quản lý hiện đại. Từ cuối thế kỷ 18 đến nay khoa học quản lý đã trải qua 3 giai đoạn chủ yếu sau: Giai đoạn 1: Cuối thế kỷ 18 đến những năm 30 thế kỷ XX. Phương pháp: đơn lẻ, bất kể miễn đạt lợi nhuận. Chủ yếu nghiên cứu có tính kinh nghiệm chưa thực sự khoa học. Cơ sở kinh tế: xuất phát là nền tảng cá nhân về sở hữu kinh tế. Giai đoạn 2: Từ năm 1930 - 1960. Phương pháp: nghiên cứu có hệ thống, khoa họ
Luận văn liên quan