Đề tài Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản vào thực tiễn Việt Nam 7

Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng để phát triển kinh tế, ngoài việc lựa chọn đường lối phát triển còn phải có các yếu tố vật chất để thực hiện được đường lối đó. Đối với các nước đã phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Anh, Pháp chúng ta đều thấy rằng họ có một tiềm lực kinh tế (đặc biệt là tiềm lực về vốn ) rất mạnh. Còn đối với những nước đang phát triển như nước ta với diểm khởi đầu rất thấp, nguồn vốn tự có rất ít, mà một trong những đặc trưng của các nước đang phát triển là tỷ lệ tích luỹ thấp, chỉ dưới 10% thu nhập, mà tích luỹ thấp sẽ dẫn đến trình độ kĩ thuật và năng suất lao động thấp. Do đó đòi hỏi các nước đang phát triển phải tìm biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Muốn vậy, phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Song trong các mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế đặc biệt nhấn mạnh vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế. Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là "kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn". Do đó vốn là cơ sở để phát huy tác dụnh của các yếu tố khác. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có công nghệ tiên tiến, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu và cuối cùng cơ cấu sử dụng vốn sẽ là điều quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Với Việt nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là, chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn nhiều khó khăn. Mà một trong những khó khăn đó là thiếu vốn. Trên đây chúng ta đã thấy vốn quan trọng như thế nào đối với việc phát triển kinh tế. Vì vậy điều chúng ta cần giải quyết là làm sao để tăng nguồn vốn của mình bằng cách tích luỹ, huy động vốn từ trong và ngoài nước. Song trong những cách để có được nguồn vốn, thì tích luỹ và huy động vốn từ trong nước là quan trọng nhất. Và có như thế chúng ta mới không bị phụ thuộc vào bên ngoài, vì sự phát triển từ nội lực bao giờ cũng là sự phát triển bền vững nhất. Nhận thức được vai trò của việc tích luỹ vốn mà em lựa chọn làm đề tài này. Trong bài viết em sẽ trình bày những lý luận chung về tích luỹ và ứng dụng những lý luận đó vào thực tiễn Việt nam.

doc21 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6854 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản vào thực tiễn Việt Nam 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng để phát triển kinh tế, ngoài việc lựa chọn đường lối phát triển còn phải có các yếu tố vật chất để thực hiện được đường lối đó. Đối với các nước đã phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Anh, Pháp …chúng ta đều thấy rằng họ có một tiềm lực kinh tế (đặc biệt là tiềm lực về vốn ) rất mạnh. Còn đối với những nước đang phát triển như nước ta với diểm khởi đầu rất thấp, nguồn vốn tự có rất ít, mà một trong những đặc trưng của các nước đang phát triển là tỷ lệ tích luỹ thấp, chỉ dưới 10% thu nhập, mà tích luỹ thấp sẽ dẫn đến trình độ kĩ thuật và năng suất lao động thấp. Do đó đòi hỏi các nước đang phát triển phải tìm biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Muốn vậy, phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Song trong các mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế đặc biệt nhấn mạnh vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế. Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế hiện đại là "kĩ thuật công nghiệp tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn". Do đó vốn là cơ sở để phát huy tác dụnh của các yếu tố khác. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có công nghệ tiên tiến, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu và cuối cùng cơ cấu sử dụng vốn sẽ là điều quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Với Việt nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là, chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn nhiều khó khăn. Mà một trong những khó khăn đó là thiếu vốn. Trên đây chúng ta đã thấy vốn quan trọng như thế nào đối với việc phát triển kinh tế. Vì vậy điều chúng ta cần giải quyết là làm sao để tăng nguồn vốn của mình bằng cách tích luỹ, huy động vốn từ trong và ngoài nước. Song trong những cách để có được nguồn vốn, thì tích luỹ và huy động vốn từ trong nước là quan trọng nhất. Và có như thế chúng ta mới không bị phụ thuộc vào bên ngoài, vì sự phát triển từ nội lực bao giờ cũng là sự phát triển bền vững nhất. Nhận thức được vai trò của việc tích luỹ vốn mà em lựa chọn làm đề tài này. Trong bài viết em sẽ trình bày những lý luận chung về tích luỹ và ứng dụng những lý luận đó vào thực tiễn Việt nam. Chương I Lý luận tích luỹ tư bản I. Bản chất và nguồn gốc của tích luỹ tư bản: Sản xuất ra của cải vật chất là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng do đó không thể ngừng sản xuất. Bất cứ quá trình sản xuất xã hội nào nếu xét theo tiến trình đổi mới không ngừng của nó, chứ không phải xét theo hình thái từng lúc của nó thì đồng thời cũng đều là quá trình tái sản xuất. Quá trình này là tất yếu khách quan và có hai hình thức là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. tái sản xuất giản đơn không phải là tái sản xuất điển hình của CNTB mà hình thái điển hình của CNTB là tái sản xuất mở rộng. Muốn tái sản xuất mở rộng nhà tư bản không thể sử dụng hết giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân, mà phải dùng một phần giá trị thặng dư để tăng quy mô đầu tư so với năm trước. Chính phần giá trị thặng dư đó được gọi là tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Xét một cách cụ thể tích luỹ tư bản nhằm tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì tư bản thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của một tư bản mới. Tích luỹ tư bản là là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất TBCN quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. Như vậy thực chất của tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm (tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm) để mở rộng sản xuất. Trong quá trình sản xuất lãi cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện mạnh mẽ để bóc lột chính người công nhân. Quá trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt TBCN. Khác với nền sản xuất hàng hoá giản đơn, trong nền sản xuất TBCN sự trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm không một phần lao động của công nhân mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu hoàn toàn không vi phạm quy luật giá trị. Động cơ thúc đẩy tích luỹ và tái sản xuất mở rộng TBCN là một quy luật kinh tế cơ bản của CNTB. Mục đích của nền sản xuất TBCN là sự lớn lên không ngừng của giá trị. Để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân. Mặt khác do tính cạnh tranh quyết liệtnên các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng nhanh tư bản tích luỹ. Nói như vậy hình như có mâu thuẫn giữa phần tiêu dùng của nhà tư bản và phần tích luỹ. Thực ra trong buổi đầu của sản xuất TBCN, sự ham muốn làm giàu của các nhà tư bản thường chi phối tuyệt đối nhưng đến một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng xa phí của cácnhà tư bản ngày càng tăng lên theo sự tích luỹ tư bản. II. Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản Quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu nhập. Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu nhà tư bản sử dụng khối lượng giá trị thặng dư đó vào việc tiêu dùng nhiều cho cá nhân thì khối lượng giá trị thặng dư dành cho tích luỹ sẽ ít đi. Khi đó quy mô của tích luỹ tư bản của nhà tư bản đó sẽ giảm đi. Ngược lại việc tiêu dùng ít đi sẽ làm tăng khối lượng tích luỹ, khi đó quy mô tích luỹ sẽ tăng lên. Tích luỹ của chế độ TBCN nhằm thu được ngày càng nhiều giá trị thặng dư : sản xuất mở rộng thì chúng càng tăng cường bóc lột công nhân thu được thêm nhiều giá trị thặng dư. Khi đó nhà tư bản càng có vốn mở rộng thêm sản xuất, quy mô bóc lột càng tăng lên. Ngoài tiêu dùng xa phí của mình, nhà tư bản còn phải đối phó với tình trạng cạnh tranh gay gắt trong xã hội tư bản nên họ đều phải tăng thêm tích luỹ để mở rộng sản xuất với quy mô lớn hơn giành nhằm phần thắng cho mình trên thương trường. Nếu tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó đã cho sẵn, thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư. Những nhân tố đó là : Một là, mức độ bóc lột sức lao động. Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công của công nhân. Như vậy công nhân không những bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản. Nâng cao mức bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư tư bản hoá, tức là làm tăng tích luỹ. ảnh hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lượng công nhân, tăng thêm máy móc, thiết bị mà hầu như chỉ cần tăng thêm sự hao phí nguyên liệu). Hai là, trình độ năng suất lao động xã hội. Việc nâng cao năng suất lao động sẽ làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá. Song vấn đề ở đây là quy mô của tích luỹ không chỉ được quyết định bởi khối lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất của tư bản, do đó làm tăng quy mô của tích luỹ. Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đó mà quy mô của tư bản tích luỹ càng lớn. Như vậy năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định đến quy mô của tích luỹ. Ba là, sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành của máy móc đều hoạt động, tức là máy móc tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá tri của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm, vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động máy móc vẫn có tác dụng khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công đó chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá trị của nó chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa tư bản cố định sử dụng và tư bản cố định tiêu dùng càng lớn. Do đó tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Bốn là, quy mô của tư bản ứng trước. Với mức bóc lột không đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do số lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ cũng càng lớn. Đối với sự tích luỹ của cả xã hội thì quy mô của tư bản ứng trước chỉ là nhỏ nhưng rất quan trọng. C. Marx đã nói rằng tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của sự tích luỹ mà thôi. Tích luỹ dưới chế độ TBCN làm cho của cải của xã hội ngày càng tập trung vào tay giai cấp tư sản, người công nhân càng bị bóc lột nặng nề, càng tăng thêm thất nghiệp và nghèo đói, làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày thêm sâu sắc hơn. Mặt khác tiêu dùng của người lao động bị hạn chế trong một phạm vi rất nhỏ hẹp. Một phần lớn thu nhập quốc dân của xã hội TBCN là dùng vào việc tiêu dùng không sản xuất và tiêu dùng ăn bám của chúng. Phần thu nhập quốc dân dùng vào tích luỹ do đó tương đối ít so với khả năng và đòi hỏi của sự phát triển khách quan của xã hội. Sự chênh lệch đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa có điều kiện phát sinh, phá hoại nặng nề và thường xuyên nền sản xuất của xã hội TBCN. Nhưng mặt khác thành quả kinh tế mà xã hội tư bản đạt được lại vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử quan trọng. III. Mối quan hệ Tích luỹ-Tích tụ- Tập trung tư bản. Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường là tích tụ và tập trung tư bản. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá một phần giá trị thặng dư. Nó là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Tập trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp là cưỡng bức (các nhà tư bản bị thôn tính do phá sản) và tự nguyện ( các nhà tư bản liên hiệp, tổ chức thành công ty cổ phần). Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ biện chứng với nhau và tác động thúc đẩy nhau nhưng lại không đồng nhất với nhau. Sự khác nhau này không chỉ khác nhau về mặt chất mà còn khác nhau về mặt lượng. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội, nó phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội, nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản. Nó có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn TBCN và quá trình chuyển chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao. Nếu gạt bỏ tính chất TBCN, tích tụ và tập trung là hình thức làm tăng thu nhập quốc dân và sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn vốn của xã hội trong quá trình sản xuất. Quá trình tích luỹ tư bản tất yếu dẫn đến sự phân cực : một bên làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu thông qua sự tích tụ và tập trung của tư bản, thông qua việc nâng cao cấu tạo hữu cơ của tư bản và làm cho giai cấp tư sản ngày càng giàu có xa hoa. Còn một bênlà giai cấp những người lao động không tránh khỏi sự thất nghiệp và bần cùng. Đó là quy luật chung của tích luỹ tư bản. Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở dùng bạo lực để tước đoạt của những người sản xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân. Quá trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu TBCN dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ lạc hậu, phân tán thành sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của những người sản xuất nhỏ. Nhưng khi phương thức sản xuất TBCN đã hình thành thì quá trình tích luỹ và cạnh tranh dẫn đến tư bản và sản xuất được tập trung ngày càng lớn, do đó sản xuất được xã hội hoá cao hơn, lực lượng sản xuất được phát triển mạnh hơn. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển của mâu thuẫn này sẽ dẫn đến sự tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản bằng xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản, xu hướng tạo ra những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội cao cho sự phủ định đối với chủ nghĩa tư bản. ChươngII Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản vào thực tiễn Việt Nam I. Vai trò tích luỹ vốn ở Việt nam 1. Tích tụ và tập trung vốn trong nước Thành quả của những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới đã khẳng định một điều rằng tích tụ và tập trung vốn trong nước có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia. Đó là động lực, là cơ sở cho sự thăng tiến của cả nền kinh tế, từ đó mở ra những hướng đi mới cho các ngành, các lĩnh vực hoạt động có hiệu quả hơn. ở việt Nam, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung trong tương lai tất nhiên chủ yếu vẫn phải dựa vào lượng đầu tư lớn. Chỉ trên cơ sở có một lượng đầu tư mạnh từ việc tích luỹ nội bộ nền kinh tế, thông qua quá trình tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp cũng như của cả cộng đồng dân cư, từ đó mới có thể trang bị cho ngành công nghiệp có kĩ thuật cao, sử dụng nhiều nhân công và khai thác một cách hữu hiệu các nguồn tài nguyên của đất nước. Khái niệm vốn trong nước đó là toàn bộ những yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất -kinh doanh được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động qua nhiều thế hệ trong mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp và cả quốc gia. Vốn hiểu theo nghĩa hẹp đó là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Còn vốn được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích luỹ của một cá nhân, một doanh nghiệp hay một quốc gia. Vì thế, việc tích tụ và tập trung nguồn vốn nói chung là cực kỳ cần thiết cho sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Trong thời gian sắp tới đây chúng ta phải tìm ra các biện pháp khả thi, tối ưu nhất để tăng cường tích tụ và tập trung vốn nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn theo nghĩa rộng để phát triển kinh tế. Kinh nghiệm của các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore... là những ví dụ điển hình. Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá -hiện đại hoá nền kinh tế cần huy động tối đa không chỉ nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác trong dân cư mà còn cần phải huy động các nguồn tài lực, những kinh nghiệm quản lý, và tất cả các quan hệ bang giao cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Các nhân tố cấu thành vốn trong nước bao gồm: Vốn tiền tệ, các dạngcủa cải, vốn con người, vốn tư liệu sản xuất, các quan hệ trong nền kinh tế thị trường... Trong đó vốn tiền tệ là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và làm gia tăng giá trị. Bất cứ một quá trình sản xuất nào dù ở cấp độ gia đình, doanh nghiệp hay cấp độ quốc gia cũng đều cần một lượng vốn tiền tệ ứng ra đủ một số lượng cần thiết để mua sắm các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, mới có thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh trong hiện tại. Điều đó nói lên rằng mỗi doanh nghiệp cũng như cả quốc gia cần phải có một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, dưới dạng tài nguyên đã được khai thác, hoặc một lượng của cải nhất định của các thế hệ trước, hoặc một số lượng nhất định sở hữu về trí tuệ, bản quyền phát minh... Ngày nay các nguồn vốn đó có thể chuyển hoá cho nhau và biến thành tiền mặt trong những điều kiện nhất định. Hiện nay chúng ta đang thiếu nhiều vốn tiền mặt nhưng bù lại chúng ta có một đội ngũ đông đảo người lao động có trình độ và tay nghề cao. Vấn đề là chúng ta phải biết biến nguồn nhân lực quan trọng này thành của cải và tiền mặt để phát triển kinh tế. Thực hiện điều đó bằng cách tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở một trình độ cao hơn, tìm tòi những thành tựu mới về khoa học –công nghệ, khoa học quản lý và những kinh nghiệm quý giá mà loài người đã tích luỹ được từ trước. Vậy làm thế nào để nguồn lực của hơn 70 triệu người thành một nguồn vốn hữu hiệu cho tăng trưởng?Trước hết chúng ta phải biết sử dụng có hiệu quả nguồn tiền mặt hiện có và ưu tiên cho đầu tư phát triển chứ không phải cho tiêu xài cá nhân. Thứ hai là phải sử dụng có hiệu quả nguồn thời gian của cộng đồng dân cư. Chính quỹ thời gian từ nay đến năn 2020-là thời điểm mà chúng ta dự định sẽ hoàn thành quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá đó không còn nhiều. Chúng ta chỉ có thể hi vọng vượt lên dòng thời cuộc khi chúng ta biết tiết kiệm thời gian. Làm được như vậy thì vốn thời gian sẽ biến thành vốn tiền mặtlớn gấp nhiều lần so với việc chúng ta cứ hoạt động, làm việc với một tốc độ chậm chạp như hiện nay. Tương tự như vậy cách sử dụng tài năng của mỗi con người cũng pphải có cách nhìn nhận, đánh giá, cất nhắc một cách linh hoạt thực sự. Qua đó ta thấy rằng các yếu tố cấu thành vốn trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và trong những điều kiện cần thiết các nhân tố này có thể chuyển hoá và thay thế lẫn nhau. Điều quan trọng nhất là phải tìm ra cấu trúc một cách hiệu quả nhất các nhân tố của quá trình sản xuất để sao cho mỗi đồng vốn trong nước sẽ tạo ra nhiều của cải nhất cho xã hội. Việc xác định mục tiêu tích tụ và tập trung vốn trong nước phải do yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. Trong mỗi giai đoạn nếu xuất hiện nhiều mục tiêu thì phải biết cân đối, kết hợp thực hiện, trong đó phải coi các mục tiêu kinh tế là cơ sở có tính quyết định. 2. Vai trò của tích luỹ vốn 2. 1. Đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tích tụ và tập trung vốn rất chặt chẽ. Sự tăng trưởng vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của tích tụ và tập trung vốn. Khi nền kinh tế đạt được tăng trưởng cao, mức sống của người dân thay đổi nhanh chóng thì người dân lại quan tâm nhiều hơn đến việc tích luỹ cho cuộc sống sau này. Quá trình tích luỹ sẽ diễn ra với tốc độ nhanh chóng và khối lượng vốn được tích luỹ ngày càng lớn. Ngược lại quá trình tích tụ và tập trung vốn lại là đòn bẩy cho sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tích tụ và tập trung vốn càng nhiều, thì quy mô vốn đầu tư càng lớn cho các hoạt động kinh tế diễn ra được nhanh chóng. Do đó, con đường tích tụ và tập trung vốn trong nước có hiệu quả là bài toán cần tháo gỡ đầu tiên để tăng tốc nền kinh tế Việt Nam. Chừng nào các nguồn lực: tiền bạc, của cải, đất đai, tài nguyên, trí tuệ của
Luận văn liên quan