KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất . Nó là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là pahts triển kinh tế, CNH,HĐH, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước của Đảng, trong thời gian qua, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Cẩm Xuyên đã vận dụng khéo léo, chú trọng đếo đầu tư phát triển KTTN, xem đây là một thành phần kinh tế trọng tâm, có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của huyện, phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của vùng. Sự phát triển KTTN đã góp phần huy động và sử dụng triệt để các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, đã tạo ra nhiều việc làm cho người dân. Điều đó đã làm cho đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, không những thế nó còn góp phần tăng thêm ngân sách của huyện, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên bước đường đổi mới, phát triển thì bên cạnh những kết quả đạt được thì thành phần KTTN ở Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh còn có nhiều điểm hạn chế cần phải được khắc phục để đưa thành phần kinh tế này trở thành một thành phần kinh tế phát triển năng động, có đóng góp chính trong đời sống của nhân dân. Do vậy, để hiểu thêm về sự vận dụng những đường lối đúng đắn của đảng vào việc phát triển nền KTTN ở huyện Cẩm Xuyên cũng như những thực tiễn nhằm phát triển KTTN phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh, nâng cao đời sống của nhân dân nên tôi chọn đề tài “Vận dụng những đường lối của Đảng vào việc phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu để làm rõ hơn những điều đó.
38 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng những đường lối của Đảng vào việc phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất . Nó là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là pahts triển kinh tế, CNH,HĐH, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước của Đảng, trong thời gian qua, Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Cẩm Xuyên đã vận dụng khéo léo, chú trọng đếo đầu tư phát triển KTTN, xem đây là một thành phần kinh tế trọng tâm, có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của huyện, phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của vùng. Sự phát triển KTTN đã góp phần huy động và sử dụng triệt để các nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, đã tạo ra nhiều việc làm cho người dân. Điều đó đã làm cho đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, không những thế nó còn góp phần tăng thêm ngân sách của huyện, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên bước đường đổi mới, phát triển thì bên cạnh những kết quả đạt được thì thành phần KTTN ở Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh còn có nhiều điểm hạn chế cần phải được khắc phục để đưa thành phần kinh tế này trở thành một thành phần kinh tế phát triển năng động, có đóng góp chính trong đời sống của nhân dân. Do vậy, để hiểu thêm về sự vận dụng những đường lối đúng đắn của đảng vào việc phát triển nền KTTN ở huyện Cẩm Xuyên cũng như những thực tiễn nhằm phát triển KTTN phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh, nâng cao đời sống của nhân dân nên tôi chọn đề tài “Vận dụng những đường lối của Đảng vào việc phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu để làm rõ hơn những điều đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề phát triển KTTN dưới nhiều góc độ khác nhau như sách , luận văn… Tuy nhiên, nghiên cứu ở thực tiễn địa phương huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh thì chưa có một công trình nào cụ thể.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích đánh giá việc vận dụng những đường lối của Đảng vào việc phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Huyện Cẩm Xuyên- Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay thực trạng phát triển KTTN ở huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh trong thời gian qua, bài tiểu luận chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục của thành phần kinh tế này. Từ đó làm cơ sở để đề ra các phương hướng và giải pháp nhằm phát triển thành phần kinh tế này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận : Đề tài được thực hiện trên cơ sở nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước về KTTN. Ngoài ra đề tài còn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài có sử dụng những phương pháp sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp logic, phương pháp điều tra khảo sát
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thành phần KTTN
- Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) và thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1986-1990)
Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn (tháng 12-1986, giá bán lẻ hàng hoá tăng 845,3%). Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản xuất; cải tạo XHCN; cơ chế quản lý kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy phải đổi mới tư duy. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976-1986).
Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội. Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc".
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN.
Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo.
Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba ch-ương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho thành phần kinh tế XHCN giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN. Tiến hành cải tạo XHCN theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.
- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước.
- Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN; phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
1.2. Thành phần kinh tế tư nhân
1.2.1 Kinh tế tư nhân
Tại đại hội Đảng lần IX đã xác định ở nước ta có 6 thành phần kinh tế : Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đến đại hội X, Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta tồn tại 5 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, KTTN, kinh tế tư bản nàh nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, theo tinh thần của Đại hội Đảng lần thứ X, KTTN bao gồm : Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân
Theo giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin dùng cho khối ngành không chuyên cho rằng: “ KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân”.
Trong nghị quyết trung ương V khóa IX của Đảng về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế tu nhân phát triển đã chỉ rõ: “KTTN gồm hai thành phần kinh tế là kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hạot động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân”.
Theo PGS, TS Võ Văn Phúc cho rằng: “ KTTN bao gồm kinh tế cá thể tiểu chủ, công ty tư nhân”.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng: “ KTTN là khu vực kinh tế bao gồm tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh của người Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước, không do nước ngoài đầu tư và khôgn thuộc thành phần kinh tế tập thể, các hợp tác xã”.
Theo TS, Nguyễn Hũu Thảo, KTTN là một hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất dựa vào sức lao động của mình là chính.
Từ các quan niệm trên ta có thể rút ra khái niệm chung nhất, đầy đủ nhất về KTTN như sau: KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tu liệu sản xuất. KTTN bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể tiểu chủ dựa trên hình thức kinh tế nhỏ về tu liệu sản xuất và sự hoạt động chủ yếu dựa vào sức lao động của chính người lao động và gia đình họ. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: Trong kinh tế cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn trong kinh tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn còn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, nhưng có thuê lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Hình thức hoạt động của kinh tế tư bản tư nhân là : Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ pâhnf tư nhân, doanh nghiệp tư nhân.
1.2.2 Phát triển KTTN là xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của đảng ta…
Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, với trình độ phát triển như hiện nay của lực lượng sản xuất của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của KTTN vẫn là nhu cầu khách quan.
Thứ hai, KTTN đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trò đọng lực của nó đối với sự phát triển của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thức ba, sự phát triển của nền KTTN trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đóng góp không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội của đất nước. Tất nhiên, KTTN chỉ phát triển đúng hướng khi Đảng và Nhà nước có chính sách và biện pháp quản lý phú hợp, khong làm mất động lực phát triển của nó, nhưng cũng khôgn để nó vận động một cách tự phát.
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lên nin đã khẳng định sự tồn tại của KTTN là một tất yếu khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và việc cải tạo thành phần kinh tế náy là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản, lâu dài của cả thời kì quá độ. Thực tiễn cho thấy, việc phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta dựa trên cơ sở khoa học, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Chủ trương đó của Đảng và Nhà nước ta được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số ý kiến chưa thống nhất với quan điểm trân thậm chí còn nhận thức không đúng về vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Họ cho rằng, việc phân chia các thành phần kinh tế ( kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) theo tiêu chí quan hệ xản xuất sẽ dẫn đến sư phân biệt đối xử theo hướng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Bởi vậy, theo họ, thay vì phân chia theo tiêu chí quan hệ sản xuất, cần phân chia theo các tiêu chí nhỏ, vừa và lớn thì mới tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.
Ở nước ta, kể từ khi đổi mới đến nay, trong các văn kiện Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có KTTN. Về nhận thức, chúng ta thừa nhận KTTN là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với lao động của các chủ thế kinh tế và lao động làm thuê, bao gồm : kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Tại Đại hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng đinh thành phần KTTN bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Có thể nói, với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà nhân loại đạt được như hiện nay, việc theo đuổi lợi ích thiết thân của bản thân con người vẫn chưa thể mất đi, do đó, nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế vừa có thể kích thích con người, vừa có thể thực hiện mục tiêu xã hội. Đó chính là cơ chế thị trường cùng với sự tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó là sở hữu tư nhân và tương ứng với nó là các thành phần KTTN được coi là động lực quan trọng của sự phát triển.
Nếu so sánh, đối chiếu với các hình thức sở hữu khác, thì phải thừa nhận rằng, trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình thúc sở hữu phù hợp hơn cả. Trong hình thức sở hữu đó, mục đích của sản xuất hàng hóa không phải là sản xuất ra các giá trị sử dụng, mà thông qua sản xuất giá trị sử dụng để thực hiện giá trị của hàng hóa và từ đó đạt được lợi nhuận. Để làm được điều này, trước hết phải xác định rõ quan hệ hàng hóa. Do hàng hóa được sản xuất ra từ các tư liệu sản xuất, nên muốn xác định quan hệ hàng hóa thì phải xác định được các quan hệ sản xuất để sản xuất ra hàng hóa đó. Quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu này, bởi một đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường là thừa nhận lợi ích cá nhân và dựa trên cơ cấu quyền tài sản phân tán. Thực tế cho thấy, nếu không có sự giao dịch, chuyển nhượng các tài sản giữa các doanh nghiệp, giữa các cá nhân sản xuất hàng hóa thì cũng không có cạnh tranh về giá cả và thị trường theo đúng nghĩa của nó, do vậy cũng không có nền kinh tế thị trường thực sự.
Bên cạnh sự phù hợp với quan hệ sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường cũng có vai trò hết sức cần thiết và có khả năng thực hiện được trong chủ nghĩa xã hội, mặc dù ở đó, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ đạo. Trình độ lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng quy định trình độ phát triển của con người. Khi thừa nhận kinh tế thị trường có là cần thiết đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng có nghĩa là phải thừa nhận sự tồn tại tất yếu của KTTN trong chủ nghĩa xã hội. Đó còn là sự thừa nhận một động lực quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển nền kinh tế XHCN. Nhưng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường và vận dụng các nguyên tắc của nó, có thể sẽ xảy ra mâu thuẫn giữa những quy định thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội với những mục tiêu kinh tế cần đạt được vì :
Thức nhất, kinh tế thị trường là một phương thức vận hành kinh tế, là sự điều hòa lợi ích và phân bố các tài nguyên thông qua thị trường. Khi vận hành, nó chỉ tạo sự công bằng trong quá trình cạnh tranh thị trường, chứ không tạo ra sự công bằng trong quá trình trên kết quả phân phối cuối cùng.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường đã đặt ra nhưng yêu cầu nhưu công bằng, hiệu quả và nguyên tắc mạnh thắng, yếu thua thì cũng phải chấp nhận ở mức độ nào đó những hậu quả mà sự vận hành của nó mang lại, sự phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng và thật nghiệp.
Đó là những mâu thuẫn mà chúng ta cần tính tới và cần nhận thức đầy đủ trong quá trình xây dựng nền kinh tế thì trường định hướng XHCN. Từ đó, có biện pháp phù hợp để từng bước tháo gỡ, trong đó phải tính đến động lực của KTTN, nhằm thúc đẩy nền kinh tế XHCN phát triển bình thường và hiệu quả cao.
Đường lối đổi mới của Đảng ta và bắt đầu từ Đại hội VI và được hoàn thiện dần qua các thời kì Đại hội tiếp theo. Về kinh tế, tại Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “ chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Trong quá trình đổi mới đó, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là KTTN đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Thực tế cho thấy, KTTN ngày càng tỏ vai trò của nó, trở thành một đối chứng hiện thực năng động để các khu vực kinh tế khác phấn đấu vươn lên, tự đổi mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. KTTN được coi làm ột trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được đối xử và hoạt động bình đẳng nhưu các khu vực kinh tế khác. Theo số liệu thống kê, về giá trị công nghiệp, năm 2005, KTTN chiếm tỉ trọng hơn 37% GDP. Tại Đại hội X, Đảng ta khẳng định rằng: “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Việc đổi mới nhận thức về vị trí và vai trò của KTTN nhưu trên thể hiện sự đánh giá một cách khách quan và khoa học hươn về khu vực kinh tế này.
Sự phát triển của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Những thành tựu kinh tế quan trọng đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng minh động, xác nhận một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển vọng tiềm tàng của KTTN nói riêng. Bởi vậy, có thể nói, đối với nước ta, phát triển KTTN là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vu quan trọng của côgn cuộc đổi mới của đất nước trong những năm tới.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực KTTN trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh đã đẩy lùi dần tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hóa phát triển, thị trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm thức xã hội. Thông qua việc phát triển KTTN mà quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế pahts huy. Trong Nghị quyết Đại hội lần thức IX, Đảng ta khẳng định: tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng. minh bạch, thông thoáng và tuận lợi hơn, ổn định chính sách, đảm bảo quyền của mọi người dân được kinh doanh tự do trong những ngành nghề mà nhà nước không cấm.
Như chúng ta đã biết, lý luận của chủ nghĩa Mác chỉ nhấn mạnh việc xóa bỏ chế độ tư hữu, chứ không phải xóa bỏ mọi hình thức sở hữu thực tế của mỗi cá nhân trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp, ý thức về quyền sở hữu thực tế của mỗi cá nhân con người chỉ cảm thấy thực sự có động lực khi họ hoạt động “cho mình”, tức là vì lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của chinh bản thân mình, sau đó mới vì các mục đích khác. Do đó, quyền sở hữu được coi