du lịch. Trong du lịch, có nhiều hình thức khác nhau như du lịch sinh thái, du lịch
văn hóa, du lịch mạo hiểm, du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch hành hương, trong đó,
du lịch văn hóa tộc người là một nhu cầu thiết yếu. Đây được xem là một hình thức du lịch
tổng hợp, vừa mang các yếu tố của du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm.
Đối với các tộc người, đặc biệt là các tộc người thiểu số ở đâu cũng có nền văn hoá dân
gian vô cùng phong phú. Yên Bái là một tỉnh miền núi, hoạt động du lịch mới chỉ bắt đầu
khởi động trong những năm gần đây. Ngoài du lịch tâm linh, du lịch sinh thái thì du lịch văn
hóa là một lĩnh vực khá mới mẻ và có nhiều tiềm năng, trong đó văn hoá tộc người Thái ở
Mường Lò là một điểm nhấn vô cùng quan trọng.
Văn hóa tộc người Thái ở Mường Lò chưa được nghiên cứu một cách toàn diện trong
một công trình cụ thể nào. Đó mới chỉ là những nghiên cứu trong cái chung của văn hoá Thái
Tây Bắc và văn hoá Thái Việt Nam hoặc chỉ là nghiên cứu riêng về một lễ tục nào đó của tộc
người, nghiên cứu toàn diện văn hoá Thái Mường Lò phục vụ du lịch lại càng hiếm. Để có
được một cái nhìn tổng thể phục vụ hoạt động du lịch cũng như việc bảo tồn các giá trị văn
hoá truyền thống của tộc người Thái vùng Mường Lò, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Văn
hoá Thái với hoạt động du lịch ở Mường Lò (Nghĩa Lộ), Yên Bái” làm luận văn thạc sĩ.
Luận văn dựa trên một số lý thuyết như thuyết lựa chọn duy lý, sinh thái văn hoá,
tương đối văn hoá, khuyếch tán văn hoá, khu vực lịch sử - văn hoá, để giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong quá trình nghiên cứu.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như định lượng, định tính,
nghiên cứu điền dã và quan sát tham gia, lịch sử - so sánh, thống kê dữ liệu, bảng biểu, để
thu thập và xử lý thông tin.
14 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Văn hóa Thái với hoạt động du lịch ở Mường Lò ( Nghĩa Lộ ), Yên Bái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa Thái với hoạt động du lịch ở Mường
Lò ( Nghĩa Lộ ), Yên Bái
Nguyễn Kim Lê
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn ThS. ngành: Dân tộc học; Mã số: 60 22 70
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Sỹ Giáo
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Mô tả, phân tích những giá trị văn hóa tộc người Thái phục vụ du lịch và
sự tác động của hoạt động du lịch tới các giá trị văn hoá đó. Làm sáng tỏ những giá
trị văn hóa truyền thống đặc sắc của tộc người cũng như những thay đổi của nó trong
đời sống xã hội mới. Nhận diện và đánh giá đúng mức việc khai thác các giá trị văn
hóa Thái trong việc phát triển du lịch hiện nay ở Mường Lò.
Keywords. Văn hóa Việt Nam; Du lịch; Yên Bái; Dân tộc Thái
Content
Ngày nay, nhu cầu hưởng thụ của con người không ngừng được nâng cao, trong đó có
nhu cầu về du lịch. Trong du lịch, có nhiều hình thức khác nhau như du lịch sinh thái, du lịch
văn hóa, du lịch mạo hiểm, du lịch tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch hành hương, … trong đó,
du lịch văn hóa tộc người là một nhu cầu thiết yếu. Đây được xem là một hình thức du lịch
tổng hợp, vừa mang các yếu tố của du lịch văn hóa, du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm.
Đối với các tộc người, đặc biệt là các tộc người thiểu số ở đâu cũng có nền văn hoá dân
gian vô cùng phong phú. Yên Bái là một tỉnh miền núi, hoạt động du lịch mới chỉ bắt đầu
khởi động trong những năm gần đây. Ngoài du lịch tâm linh, du lịch sinh thái thì du lịch văn
hóa là một lĩnh vực khá mới mẻ và có nhiều tiềm năng, trong đó văn hoá tộc người Thái ở
Mường Lò là một điểm nhấn vô cùng quan trọng.
Văn hóa tộc người Thái ở Mường Lò chưa được nghiên cứu một cách toàn diện trong
một công trình cụ thể nào. Đó mới chỉ là những nghiên cứu trong cái chung của văn hoá Thái
Tây Bắc và văn hoá Thái Việt Nam hoặc chỉ là nghiên cứu riêng về một lễ tục nào đó của tộc
người, nghiên cứu toàn diện văn hoá Thái Mường Lò phục vụ du lịch lại càng hiếm. Để có
được một cái nhìn tổng thể phục vụ hoạt động du lịch cũng như việc bảo tồn các giá trị văn
hoá truyền thống của tộc người Thái vùng Mường Lò, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Văn
hoá Thái với hoạt động du lịch ở Mường Lò (Nghĩa Lộ), Yên Bái” làm luận văn thạc sĩ.
Luận văn dựa trên một số lý thuyết như thuyết lựa chọn duy lý, sinh thái văn hoá,
tương đối văn hoá, khuyếch tán văn hoá, khu vực lịch sử - văn hoá, … để giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong quá trình nghiên cứu.
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như định lượng, định tính,
nghiên cứu điền dã và quan sát tham gia, lịch sử - so sánh, thống kê dữ liệu, bảng biểu, … để
thu thập và xử lý thông tin.
Thông qua việc mô tả, phân tích những giá trị văn hóa tộc người Thái phục vụ du lịch
và sự tác động của hoạt động du lịch tới các giá trị văn hoá đó, luận văn góp phần làm sáng tỏ
những giá trị văn hóa truyền thống của tộc người cũng như những thay đổi của nó. Đồng thời
nhận diện và đánh giá đúng mức việc khai thác các giá trị văn hóa Thái trong phát triển du
lịch hiện nay ở Mường Lò.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là tất cả các giá trị văn
hoá Thái (chủ yếu là nhóm Thái Đen) ở Mường Lò hiện đang được khai thác phục vụ hoạt
động du lịch.
Luận văn chủ yếu sử dụng nguồn tài liệu thu thập được trong quá trình điền đã. Bên
cạnh đó có tham khảo các công trình nghiên cứu, các bài viết trước đó về văn hoá Thái vùng
Mường Lò.
Có thể coi đây là một công trình tổng quát về văn hoá tộc người Thái vùng Mường Lò
(cả truyền thống và biến đổi), góp phần cung cấp tư liệu khoa học cho quá trình nghiên cứu
cũng như việc hoạch định chính sách phát triển của địa phương.
Toàn luận văn gồm 165 trang, 8 trang đầu gồm các mục: lời cảm ơn, lời cam đoan, mục
lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các bảng biểu. Chính văn gồm ba phần, chiếm 152
trang: Phần mở đầu, 9 trang (từ trang 1 đến trang 9), gồm 7 mục: Lý do lựa chọn đề tài, lịch
sử nghiên cứu vấn đề, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, đối
tượng và phạm vi nghiên cứu, nguồn tài liệu sử dụng trong luận văn, đóng góp của luận văn
và kết cấu của luận văn. Phần nội dung, 123 trang (từ trang 10 đến trang 133), gồm 4
chương: Chương 1. Tổng quan về văn hoá tộc người với hoạt động du lịch ở Yên Bái.
Chương 2. Các dạng thức văn hóa vật chất với hoạt động du lịch. Chương 3. Các yếu tố văn
hóa tinh thần với hoạt động du lịch. Chương 4. Tác động của hoạt động du lịch đối với các
giá trị văn hoá Thái ở Mường Lò. Phần kết luận, 2 trang (từ trang 134 đến trang 135). Tài
liệu tham khảo chiếm 5 trang (từ trang 136 đến trang 141), danh sách người cung cấp thông
tin (trang 142), 23 trang sau là phụ lục. Cấu trúc cụ thể của đề tài như sau:
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
3.1 Cơ sở lý thuyết
3.2 Phương pháp nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
5.2 Phạm vi nghiên cứu
6. Nguồn tài liệu sử dụng trong luận văn
7. Đóng góp của luận văn
8. Kết cấu của luận văn
Chƣơng 1. Tổng quan về văn hoá tộc ngƣời với hoạt động du lịch ở Yên Bái
1.1. Phân vùng văn hoá tộc người với hoạt động du lịch ở Yên Bái
1.1.1 Vùng văn hoá sông Hồng
1.1.2 Vùng văn hoá sông Chảy
1.1.3 Vùng văn hoá miền Tây
1.2. Địa danh Mường Lò và văn hoá tộc người Thái
1.2.1 Mường Lò xưa và nay
1.2.1.1 Mường Lò trong quá trình lịch sử
1.2.1.2 Mường Lò hiện nay
1.2.2 Văn hoá tộc người Thái ở Mường Lò
Tiểu kết chương 1
Chƣơng 2. Các dạng thức văn hoá vật chất với hoạt động du lịch
2.1. Nhà cửa
2.2. Các nghề thủ công truyền thống
2.2.1 Các sản phẩm của nghề dệt
2.2.2 Các sản phẩm đan lát
2.3. Ẩm thực
2.3.1 Đồ ăn
2.3.1.1 Các món ăn chế biến từ gạo
2.3.1.1.1 Các món ăn chế biến từ gạo nếp
2.3.1.1.2 Các món ăn chế biến từ gạo tẻ
2.3.1.2 Các món ăn chế biến từ các loại động vật
2.3.1.2.1 Các món ăn chế biến từ cá và thuỷ sản
2.3.1.2.1.1 Cá xỉnh (cá suối)
2.3.1.2.1.2 Các loại cá thường
2.3.1.2.2 Các món ăn chế biến từ thịt động vật
2.3.1.2.3 Các món ăn chế biến từ các loại côn trùng, các loài thủy sinh
2.3.1.3 Các món ăn chế biến từ rau quả
2.3.1.3.1 Rêu suối
2.3.1.3.2 Các loại măng
2.3.1.3.3 Các loại nấm
2.3.1.3.4 Các loại rau xanh
2.3.1.3.5 Các loại canh
2.3.1.4 Các loại gia vị và nước chấm
2.3.1.4.1 Nước chấm (chẩm chéo)
2.3.1.4.2 Mắm cá (mẳm pa)
2.3.1.4.3 Ruột cá ướp (xảy pa bong)
2.3.1.4.4 Nước đắng (nặm pịa)
2.3.1.4.5 Tương tời (mác thuớ ố)
2.3.2 Đồ uống
2.3.2.1 Các loại rượu
2.3.2.2 Các loại nước được chế biến từ búp, lá, củ và rễ cây
2.4.1 Các di tích, danh lam thắng cảnh
2.4.2 Suối nước nóng
2.4.3 Chợ văn hoá Mường Lò
Tiểu kết chương 2
Chƣơng 3. Các yếu tố văn hoá tinh thần với hoạt động du lịch
3.1. Ngôn ngữ, chữ viết
3.2. Lễ tết
3.2.1 Tết nguyên đán
3.2.2 Lễ hội “xên mường” (cúng mường)
3.2.3 Lễ hội “xên bản” (cúng bản)
3.2.4 Sàn diễn “hạn khuống”
3.2.5 Lễ hội “lồng tồng” (xuống đồng)
3.2.6 Lễ hội hoa ban
3.2.7 Lễ “xên đông” (cúng rừng)
3.2.8 Tết “xíp xí” (14/7 âm lịch)
3.3. Tôn giáo – tín ngưỡng
3.4. Dân ca, dân vũ, dân nhạc
3.4.1 Dân ca
3.4.2 Dân vũ
3.4.2.1 Múa xoè
3.4.2.2 Nhảy sạp
3.4.3 Nhạc cụ dân gian
3.5. Các trò chơi dân gian
3.5.1 Ném còn
3.5.2 “Tó mắc lẹ” (chọi quả lẹ)
3.5.3 Chơi đu
3.6. Văn học dân gian
3.7. Y học dân gian
Tiểu kết chương 3
Chƣơng 4. Tác động của hoạt động du lịch đối với các giá trị
văn hoá Thái ở Mƣờng Lò
4.1. Những tác động tích cực
4.2. Những tác động tiêu cực
4.3. Một số giải pháp khắc phục
Tiểu kết chương 4
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ TỘC NGƢỜI
VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở YÊN BÁI
Chương này đi vào khảo cứu và giới thiệu những nét chung nhất về văn hoá các tộc
người với hoạt động du lịch trên toàn tỉnh Yên Bái nói chung.
1.1 Phân vùng văn hoá với hoạt động du lịch ở Yên Bái
Trong phần này, chúng tôi đề cập đến việc phân vùng văn hoá của tỉnh Yên Bái hiện
nay và việc phát triển du lịch theo hướng khai thác các vùng văn hoá này để xác định các
tour, tuyến du lịch. Việc phân vùng này dựa trên các đơn vị hành chính và sự cư trú của một
số tộc người điển hình. Với 9 huyện, thị xã, thành phố và 12 tộc người có số dân tương đối
đông và còn lưu giữ được những sắc thái văn hoá đặc trưng, toàn tỉnh Yên Bái được chia làm
3 vùng văn hoá:
1.1.1 Vùng văn hoá sông Hồng.
Vùng này gồm có: thành phố Yên Bái, các huyện Trấn Yên và Văn Yên. Đây là vùng
văn hoá điển hình của các tộc người: Kinh, Tày, Dao (Dao Đỏ), Phù Lá (Xá Phó) và một bộ
phận nhỏ các tộc người: Cao Lan (Sán Chay), Mường, Hmông. Trong vùng nổi lên nhiều di
tích lịch sử, các trung tâm tôn giáo – tín ngưỡng, khu bảo tồn thiên nhiên, các làng nghề
truyền thống, các nghi lễ, phong tục tập quán đặc sắc của các tộc người thiểu số. Hiện nay,
những nét văn hoá này đã và đang được duy trì và phát huy mạnh mẽ để đẩy mạnh hoạt động
du lịch.
1.1.2 Vùng văn hoá sông Chảy.
Vùng văn hoá này gồm hai huyện: Yên Bình và Lục Yên. Nơi đây là địa bàn sinh
sống của các tộc người: Tày, Nùng, Dao (Dao Đỏ và Dao Quần Trắng), Cao Lan (Sán Chay).
Cùng với khu du lịch hồ Thác Bà, vùng này rất chú trọng du lịch văn hoá tộc người với các
điểm du lịch cộng đồng hiện đang thu hút du khách, đặc biệt là khách nước ngoài. Tiêu biểu
có làng văn hoá Ngòi Tu, xã Vũ Linh, huyện Yên Bình với đặc trưng văn hoá Dao (Dao Quần
Trắng), Cao Lan; bình nguyên xanh Khai Trung, xã Khai Trung, huyện Lục Yên với đặc
trưng văn hoá Tày, Dao (Dao Đỏ).
1.1.3 Vùng văn hoá Miền Tây.
Vùng này bao gồm thị xã Nghĩa Lộ và các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang
Chải. Đây được xác định là trọng điểm phát triển du lịch văn hoá tộc người của tỉnh Yên Bái .
Vùng văn hoá này là nơi tụ cư của nhiều tộc người: Thái, Tày, Hmông, Dao, Mường, Khơ
Mú, Giáy. Trong vùng, văn hoá tộc người được khai thác gắn với các vùng cảnh quan cư trú
của đồng bào. Tiêu biểu có: văn hoá Thái vùng Mường Lò; văn hoá Hmông vùng Mù Cang
Chải, Trạm Tấu, xã Suối giàng (huyện Văn Chấn); văn hoá Tày ở các xã Đồng Khê, Thượng
Bằng La (huyện Văn Chấn); văn hoá Mường ở các xã Sơn A, Thanh Lương (huyện Văn
Chấn); văn hoá Khơ Mú ở xã Nghĩa Sơn (huyện Văn Chấn); văn hoá Giáy ở xã Gia Hội
(huyện Văn Chấn), ...
Với việc phân vùng trên, từ năm 1995, tỉnh Yên Bái đã rất tích cực trong việc sưu
tầm, bảo tồn và phát huy vốn văn hoá truyền thống của các tộc người. Từ năm 2004, tỉnh
tham gia chương trình “Du lịch về cội nguồn”, phối hợp với các tỉnh Phú Thọ, Lào Cai, du
lịch Yên Bái nói chung và du lịch văn hoá tộc người nói riêng đã có nhiều khởi sắc. Tuy
nhiên, du lịch Yên Bái vẫn còn nhiều khoảng trống cần khắc phục để có thể phát huy tiềm
năng của mình hơn nữa.
1. 2 Địa danh Mƣờng Lò và văn hoá tộc ngƣời Thái
1.2.1 Mường Lò xưa và nay
1.2.1.1 Mường Lò trong quá trình lịch sử
Trong phần này, chúng tôi đề cập đến Mường Lò từ khi người Thái Đen di cư vào
Tây Bắc Việt Nam (thế kỷ XI, XII – theo hai cuốn sử thi “Quắm tố mương” và “Táy pú sấc”
của đồng bào). Lúc này, Mường Lò được chia làm ba khu mường: Mường Lò Luông (Mường
Lò lớn), Mường Lò Gia (gọi tắt là Mường Gia) và Mường Lò Cha (gọi tắt là Mường Cha).
Ngoài ra, Mường Lò còn bao gồm các mường nhỏ khác như Mường Hồng, Mường Hằng,
Mường Lùng, Mường Nặm, Mường Piu, …
Trong các thư tịch cổ của người Việt, không thấy nhắc tới địa danh Mường Lò mà chỉ
thấy nhắc đến Văn Chấn, thuộc địa phận Hưng Hoá. Trong quá trình lịch sử, với nhiều lần
thay đổi địa dư hành chính, Mường Lò được xác định nằm trong địa giới huyện Văn Chấn và
sau này thuộc cả hai đơn vị hành chính là huyện Văn Chấn và thị xã Nghĩa Lộ.
1.2.1.2 Mường Lò hiện nay.
Địa danh Mường Lò hiện nay được xác định bao gồm toàn bộ thị xã Nghĩa Lộ và 6 xã
vùng thấp của huyện Văn Chấn là: Sơn A, Thanh Lương, Thạch Lương, Hạnh Sơn, Phúc Sơn
và Phù Nham.
Trong luận văn này, chúng tôi xem xét các giá trị văn hoá Thái phục vụ du lịch theo
nghĩa rộng của vùng văn hoá Mường Lò cổ trước kia.
1.2.2 Văn hoá tộc người Thái ở Mường Lò.
Vùng lòng chảo Mường Lò chiếm trên 90% tổng số người Thái ở Yên Bái (chủ yếu là
nhóm Thái Đen). Mường Lò được biết đến là vùng đất tổ của nhóm Thái Đen ở Việt Nam.
Nơi đây, các giá trị văn hoá truyền thống được bảo lưu khá tốt.
Văn hoá vật chất được xác định là thế mạnh cho việc phát triển du lịch trong vùng với
các dạng thức: nhà cửa, các nghề thủ công truyền thống (dệt thổ cẩm và đan lát), đặc biệt là
nghệ thuật ẩm thực với hàng chục món ăn ngon.
Văn hoá tinh thần với những nét độc đáo riêng rất thu hút sự chú ý của du khách, đặc
biệt là các lễ hội với các làn điệu dân ca, nghệ thuật dân vũ, các trò chơi dân gian, hệ thống
văn học dân gian và tri thức y dược học cổ truyền.
Tiểu kết chƣơng 1.
Chúng tôi khẳng định, Yên Bái là một tỉnh miền núi có nhiều tộc người cùng sinh
sống, là nơi có ưu thế đẩy mạnh du lịch văn hoá tộc người. Tỉnh đã tiến hành phân chia các
vùng văn hoá để khai thác phục vụ du lịch, trong đó, vùng văn hoá Thái Mường Lò là một
trọng điểm rất được chú ý.
CHƢƠNG 2. CÁC DẠNG THỨC VĂN HOÁ VẬT CHẤT
VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
2.1 Nhà cửa.
Trong nội dung này, chúng tôi tìm hiểu từ nhà sàn truyền thống của đồng bào. Đó là
những ngôi nhà sàn bốn mái, cao, rộng, khum khum hình mai rùa, hai đầu hồi có biểu tượng
“khau cút”, mái lợp cỏ gianh hoặc ván thông, sàn được làm từ tre, diễn băm nhỏ. Nhà sàn này
có hai cầu thang, hai bếp lửa, được trang trí hoa văn rất công phu với các dạng cỏ cây hoa lá,
chim muông từng cặp đối xứng nhau.
Đến những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, nhà sàn của người Thái đã có sự thay đổi
cho phù hợp với đời sống mới. Đó là những ngôi nhà khung gỗ, được cưa, xẻ, bào, đục, đẽo
và lắp ráp theo kỹ thuật mộng thắt, mái lợp prôximăng, sàn gỗ, một cầu thang, một bếp lửa,
hầu như không còn “khau cút”, hoa văn có trang trí nhưng không còn công phu, tỉ mỉ. Cách
bố trí, sắp xếp các hoạt động sinh hoạt cũng có sự thoải mái hơn giữa hai giới.
Để phục vụ du lịch, một số nhà sàn cộng đồng được dựng lên nhưng cũng không còn
theo lối truyền thống nữa.
2.2 Các nghề thủ công truyền thống.
2.2.1 Các sản phẩm của nghề dệt.
Trong phần này, chúng tôi ghi nhận từ việc phụ nữ Thái vẫn duy trì trang phục truyền
thống trong đời sống hàng ngày với áo cỏm, váy dài đen, khăn đội đầu, dây lưng và xà tích.
Những năm gần đây, du lịch đẩy mạnh nên nghề dệt thổ cẩm ở Mường Lò được mở rộng,
nhiều tổ sản xuất được hình thành. Các sản phẩm thu hút sự quan tâm của du khách gồm có:
đệm bông lau, chăn, ga thổ cẩm, đệm ngồi, quần áo thổ cẩm, váy thổ cẩm, tranh thổ cẩm, ba
lô, túi xách, … với nhiều dạng hoa văn truyền thống và cách điệu.
2.2.2 Các sản phẩm đan lát.
Trước kia, những sản phẩm của nghề này chỉ phục vụ nhu cầu tự cấp tự túc của đồng
bào với các vật dụng gia đình như ớp, sọt, bồ, nôi, coóng khẩu, mom, đó, hòm đựng đồ, …
Gần đây, nhiều câu lạc bộ đan lát được thành lập, đã sản xuất hàng loạt sản phẩm cung cấp
cho thị trường du lịch. Đó là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các loại giỏ đựng đồ với nhiều
mẫu mã và kích cỡ khác nhau.
2.3 Ẩm thực.
Đây là một nội dung rất phong phú và đa dạng trong các dạng thức văn hoá vật chất của
đồng bào Thái. Chúng tôi tiến hành chia theo các nguyên liệu chế biến để tìm hiểu. Một số
món ăn, đồ uống tiêu biểu được nghiên cứu từ cách thức khai thác, chế biến đến thưởng thức.
Riêng về đồ ăn, chúng tôi chia ra:
Thứ nhất là các món ăn chế biến từ gạo (gạo nếp và gạo tẻ) có: cơm lam (cơm nếp, tẻ),
xôi (xôi trắng, xôi ngũ sắc), các loại bánh nếp. Cơm nếp lam và xôi ngũ sắc được xem xét cụ
thể.
Thứ hai là các món ăn chế biến từ thịt các loài động vật có: các món ăn truyền thống
chế biến từ cá xỉnh (cá suối), các loại cá thường, gà, trâu, bò, dê, nai, hoãng, nhím, don, sóc,
chồn, rắn, … trong đó, các món ăn chế biến từ cá xỉnh, lạp cá, gỏi cá, gà xôi, gà nướng, thịt
trâu khô được tìm hiểu và ghi nhận cụ thể.
Thứ ba là các món ăn chế biến từ các loài côn trùng, thuỷ sinh như bọ xít nhãn, châu
chấu, dế mèn, ong và nhộng ong, kiến và trứng kiến, tôm, cua đá, ốc, ếch, nhái, lươn, trạch,
… Các món: bọ xít nhãn, châu chấu, dế mèn, ruốc tôm được chú ý.
Thứ tư là các món ăn chế biến từ các loại rau quả có: rêu suối, các loại măng, các loại
nấm, các loại rau xanh đồ tổng hợp, nộm tổng hợp và các loại canh, trong đó, rêu suối, một số
loại măng và rau xôi nộm tổng hợp được tìm hiểu cụ thể.
Thứ năm là các loại gia vị và nước chấm có: các loại gia vị mạnh như cay, chua, đắng,
chát, …; các loại nước chấm có: chẩm chéo, nặm pịa, tương tời, ruột cá ướp, mắm cá. Các
loại nước chấm đều được tìm hiểu cụ thể từ cách thức chế biến và thưởng thức.
Đồ uống của đồng bào được chúng tôi khuôn làm hai dạng. Đó là: rượu (rượu cất - lảu
xiêu và rượu cần - lảu xá) và các thức uống được chế biến từ các loại củ, búp, lá, rễ cây như:
chè, khúc khắc, nhân trần, sâm rừng, …
2.4 Các dạng thức khác.
Nội dung này, chúng tôi đề cập đến một số dạng thức phục vụ du lịch có gắn với văn
hoá Thái như các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh (thành cổ Viềng Công, khu di tích căng
và đồn Nghĩa Lộ); các khu suối nước nóng (bản Hốc, bản Bon, Tú Lệ); chợ văn hoá Mường
Lò.
Tiểu kết chƣơng 2.
Luận văn khẳng định những giá trị văn hoá vật chất của người Thái ở Mường Lò còn
khá nguyên dạng, người dân trong vùng cũng ý thức khá tốt về việc giữ gìn các giá trị văn
hoá truyền thống của tộc người. Đây là điều kiện thuận lợi cho Mường Lò đẩy mạnh hoạt
động du lịch.
CHƢƠNG 3. CÁC YẾU TỐ VĂN HOÁ TINH THẦN
VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
3.1 Ngôn ngữ, chữ viết.
Trong quá trình điền dã, chúng tôi nhận thấy tiếng nói của tộc người vẫn được đồng bào
duy trì trong cuộc sống thường ngày, thậm chí còn ảnh hưởng tới cả những tộc người khác
sinh sống trong vùng như Khơ Mú, Mường, Kinh, …
Về chữ Thái cổ, trước năm 2006, trong vùng chỉ có 5 người có thể đọc và viết thông
thạo. Gần đây, do nhu cầu của việc bảo tồn vốn di sản văn hoá tộc người mà địa phương đã
liên tục mở các lớp học chữ Thái. Nhờ đó, chữ Thái đã được hồi sinh ở Mường Lò.
3.2 Lễ tết.
Đây là một nội dung khá phong phú trong văn hoá tinh thần của tộc người Thái vùng
Mường Lò. Trong luận văn này, chúng tôi lựa chọn những lễ hội tiêu biểu được địa phương
đưa vào danh mục những hoạt động phục vụ du lịch và được du khách quan tâm tìm hiểu.
Các lễ hội này được trình bày lần lượt theo trình tự thời gian của một năm. Mỗi lễ hội được
xem xét cụ thể từ thời gian, địa điểm, cách thức tổ chức đến vai trò, ý nghĩa của nó trong
cuộc sống cộng đồng cũng như đối với du khách.
Các lễ hội đó gồm có: tết nguyên đán; lễ hội “xên mương” (cúng mường); lễ hội “xên
bản” (cúng bản); sàn diễn “hạn khuống”; lễ hội “lồng tồng” (xuống đồng), lễ hội hoa ban; lễ
“xên đông” (cúng rừng); tết “xíp xí” và tục cúng vía trâu.
3.3 Tôn giáo – tín ngƣỡng.
Các yếu tố tôn giáo – tín ngưỡng của đồng bào Thái Mường Lò rất đa dạng song trong
luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến các yếu tố hiện đang được khai thác phục vụ hoạt
động du lịch. Đó là: tín ngưỡng cầu mùa, gồm có: lễ xin mưa, lễ cúng thuồng luồng và đón
tiếng sấm đầu mùa; tục hoả táng rất đặc trưng của nhóm Thái Đen; tục thờ thổ công và thờ
cha mẹ của người phụ nữ Thái. Mỗi phong tục trên đều được tìm hiểu theo trình tự từ thời
gian, địa điểm, cách thức tiến hành đến vai trò, ý nghĩa của nó trong đời sống của cộng đồng
cũng như đối với hoạt động du lịch.
3.4 Dân ca, dân vũ, dân nhạc.
Đây là một nội dung rất phong phú và độc đáo trong đời sống cộng đồng cũng như
trong việc khai thác phục vụ du lịch.. Các yếu tố này đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá
cao bởi sự nguyên dạng và đ