Đề tài Văn học Trung Quốc từ Minh Thanh đến hiện đại

Cuối thời Nguyên, đầu thời Minh, cùng với sự ra đời của Tam Quốc chí là sự ra đời của bộ tiểu thuyết xuất sắc Thủy Hử truyện.Đến bây giờ, Thủy Hử truyện vẫn được đánh giá là tác phẩm văn học đỉnh cao của Trung Quốc cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Thi Nại Am (1296-1370) có tên là Tử An, quê ở Cô Tô, hai năm làm quan ở Tiền Đường, sau bỏ quan về Tô Châu.Theo truyền thuyết, Thi Nại Am từng tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân Trương Sĩ Thành cuối đời Nguyên. Cuộc đời văn chương của Thi Nại Am vẫn còn những điều chưa sáng rõ.Tuy nhiên, với bộ tiểu thuyết vĩ đại Thủy Hử, tên tuổi của ông được khẳng định chắc chắn trong nền văn học Trung Quốc.Thủy Hử kể lại câu chuyện khởi nghĩa nông dân đời Tống do Tống Giang cầm đầu.Tuy nhiên, với tài năng xuất chúng, dựa trên cốt lõi lịch sử của cuộc khởi nghĩa, tập trung những câu chuyện Thủy Hử rời rạc trong truyền thuyết dân gian, thoại bản. tập kịch, bằng tài năng xuất chúng và tinh thần lao động sáng tạo nghiêm túc, Thi Nại Am đã miêu tả cuộc khởi nghĩa Tống Giang tỉ mỉ hơn, chi tiết hơn và điển hình hơn, khiến bộ tiểu thuyết phong phú về nội dung, tinh tế điêu luyện về nghệ thuật.

doc24 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3548 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Văn học Trung Quốc từ Minh Thanh đến hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học khoa học xã hội và nhân văn Đại học quốc gia Hà Nội BÀI TẬP THẢO LUẬN NHÓM MÔN VĂN HỌC TRUNG QUỐC TỪ MINH THANH ĐẾN HIỆN ĐẠI NHÓM 1 Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 2010 Danh sách phân công nhóm: Câu 1: Bùi Huyền Trang Nguyễn Huyền Trang Bùi Thị Thu Lê Thị Thắm Câu 2: Đào Thị Mơ Hà Thị Mai Hoàng Thanh Loan Nguyễn Thị Thơm Câu 3: Chu Thị Hồng Vân Phạm Thị Hiền Trang Lê Thị Sen Dương Văn Trường Trần Thị Thanh Hải,. Câu 4: Phạm Ngọc Lan Cao Thu Phương Đỗ Thị Hậu Nguyễn Thúy An Nguyễn Thị Hồng Trần Thị Lan Hoa Nguyễn Thị Nghệ Nguyễn Thị Hương (9/4/1990) Câu 1: A.VỀ TÁC GIẢ THI NẠI AM: Cuối thời Nguyên, đầu thời Minh, cùng với sự ra đời của Tam Quốc chí là sự ra đời của bộ tiểu thuyết xuất sắc Thủy Hử truyện.Đến bây giờ, Thủy Hử truyện vẫn được đánh giá là tác phẩm văn học đỉnh cao của Trung Quốc cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Thi Nại Am (1296-1370) có tên là Tử An, quê ở Cô Tô, hai năm làm quan ở Tiền Đường, sau bỏ quan về Tô Châu.Theo truyền thuyết, Thi Nại Am từng tham gia cuộc khởi nghĩa nông dân Trương Sĩ Thành cuối đời Nguyên. Cuộc đời văn chương của Thi Nại Am vẫn còn những điều chưa sáng rõ.Tuy nhiên, với bộ tiểu thuyết vĩ đại Thủy Hử, tên tuổi của ông được khẳng định chắc chắn trong nền văn học Trung Quốc.Thủy Hử kể lại câu chuyện khởi nghĩa nông dân đời Tống do Tống Giang cầm đầu.Tuy nhiên, với tài năng xuất chúng, dựa trên cốt lõi lịch sử của cuộc khởi nghĩa, tập trung những câu chuyện Thủy Hử rời rạc trong truyền thuyết dân gian, thoại bản. tập kịch, bằng tài năng xuất chúng và tinh thần lao động sáng tạo nghiêm túc, Thi Nại Am đã miêu tả cuộc khởi nghĩa Tống Giang tỉ mỉ hơn, chi tiết hơn và điển hình hơn, khiến bộ tiểu thuyết phong phú về nội dung, tinh tế điêu luyện về nghệ thuật. B..QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH THỦY HỬ TRUYỆN Cũng như Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử truyện ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XIV do Thi Nại Am là tác giả đầu tiên viết thành một tiểu thuyết chính thức. Câu chuyện Thủy hử vốn đã được kể trong dân gian từ trước đó khá lâu, do sự hấp dẫn về nội dung mà được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Câu chuyện kể về cuộc khởi nghĩa của 108 người anh hùng Lương Sơn Bạc do Tống Giang đứng đầu với phương châm hành động “Thế thiên hành đạo” ( thay trời làm việc tốt cho dân) và “Đoạt phú tế bần” (cướp của người giàu chia cho người nghèo). Trong một xã hội phong kiến thối nát vua là kẻ bất tài vô dụng, quan là kẻ lưu manh gian xảo, đời sống nhân dân chịu nhiều nỗi thống khổ thì hoạt động của những người nghĩa sĩ Lương Sơn Bạc xứng đáng tôn họ thành những anh hùng trong nhân dân. Câu chuyện về cuộc khởi nghĩa do Tống Giang đắng đầu đã được ghi chép lại trong nhiều tư liệu trong lịch sử đời Tống như: Tống sử,Thập triều cương yếu…đặc biệt là trong cuốn Tống Giang tam thập lục nhân tán(viết vào cuối đời Tống đầu đời Nguyên), Đại Tống Tuyên Hòa di sự (đời Nguyên)… ghi lại khá chi tiết. Bên cạnh đó là sự xuất hiện nhiều vở tạp kịch về các nhân vật anh hùng của Lương Sơn Bạc cùng với nhiều câu chuyện khác nhau kể về số phận riêng của từng người được lưu truyền trong nhân dân…Tất cả đã trở thành chất liệu để cho tác giả Thi Nại Am viết thành một tiểu thuyết chương hồi Thủy Hử truyện có vai trò rất quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Bản Thủy Hử truyện được lưu hành rộng rãi nhất trong 300 năm gần đây không còn là nguyên bản của Thi Nại Am mà là bản gồm 71 hồi do Kim Thánh Thán(cuối Minh đầu Thanh) chỉnh lý. Ông đã dựa vào bản một trăm hồi và bản 120 hồi chỉnh lý lại thành bản 71 hồi dừng lại ở đỉnh cao cuộc khởi nghĩ “Anh hùng chia ngôi thứ bậc” C. THỦY HỬ- TÌNH HÌNH LƯU TRUYỀN VĂN BẢN “THỦY HỬ TRUYỆN” Cho tới nay không còn nguyên bản Thủy hử của Thi Nại Am. Bản được lưu hành rộng rãi nhất trong 300 năm nay là bản 71 hồi do Kim Thánh Quán chỉnh lý. Thánh Quán dựa vào bản 100 hồi và bản 120 hồi, sắp xếp lại thành bản 71 hồi, dừng lại ở đỉnh cao của cuộc khởi nghĩa “Anh hùng chia ngôi tứ bậc”. Bản của Thánh Quán giữ được tinh hoa của cốt truyện, văn chương trau chuốt. Ngoài ra còn các bản 100 hồi, 115 hồi, 124 hồi và bản 120 hồi do Quách Hân đời Minh biên tập. Các bản này đều miêu tả quá trình thất bại của khởi nghĩa sau khi nhận “Chiêu an”. Quân khởi nghĩa bị triều đình lợi dụng điều đi đánh Tiêu và dẹp các cuộc khởi nghĩa của Điền Hổ, Vương Khánh, Phương Lạp. Chiến thắng trở về, 108 vị anh hùng chỉ còn có 27. Họ được triều đình phong thưởng. Nhưng từ đây tính mạng của họ luôn bị uy hiếp. Bốn tên gian tặc trong triều là Sái Kinh, Đồng Quan, Cao Cầu, Dương Tiễn tìm cách hãm hại anh em Tống Giang. Lư Tuấn Nghĩa được mời về triều, vua ban cơm ngự trộn thủy ngân trên đường về, qua sông Hoàng Hà rơi xuống sông chết. Tống Giang được ban cho bình ngự tửu trộn thuốc độc. Biết rượu độc, Tống Giang cho gọi Lý Quỳ về cùng uống. Các anh em khác lần lượt bị giết hại. Cuộc khởi nghĩa của các anh hùng Lương Sơn Bạc kết thúc. Câu 2 Thủy hử phản ánh trung thành quá trình phát sinh, phát triển và thất bại của cuộc khởi nghĩa nông dân cuối thời Bắc Tống. Cuộc đấu tranh của một trăm linh tám vị anh hùng trong Thủy hử chưa hẳn là cuộc khởi nghĩa cử Tống Giang cuối thời Bắc Tống, Nhưng không phải vì thế mà tác phẩm thiếu giá trị hiện thực lịch sử. Cuộc đời hoạt động của một trăm linh tám vị anh hùng Lương Sơn Bạc trong Thủy hử có thể không hoàn toàn phù hợp với lịch sử thời Bắc Tống. Nhưng nó phản ánh tinh thần của các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới triều đại phong kiến Trung Quốc. Lòng hào hiệp cứu người của các vị anh hùng, tinh thần chiến đấu dũng cảm , giàu lòng hi sinh của anh em Tống Giang, đã kế thừa tinh thần đấu tranh bền bỉ của bao thế hệ nông dân Trung quốc trước đó. Thủy hử thông qua hoạt động của các loại nhân vật xuất thân từ nhiều tầng lớp trong xã hội. Thông qua quy mô đấu tranh của các anh hùng hảo hán đất Lương Sơn đã phản ánh toàn diện bộ mặt xã hội thời bấy giờ. Quá trình phát sinh của khởi nghĩa nông dân trong xã hội phong kiến Trung Quốc điển hình trong Thủy hử: Áp bức giai cấp, là nguyên nhân cơ bản nảy sinh khởi nghĩa nông dân. Chân lý lịch sử này, được thể hiện hết sức sinh động qua việc miêu tả các sự kiện và hành động của các nhân vật, dưới ngòi bút tài hoa của Thi Nại Am. Những nhân vật xấu xa của giai cấp bốc lột, đã được tác giả vẽ nên một bức tranh ghê tởm của xã hội phong kiến. Chúng từng phơi bày những bộ mặt nham hiểm của chúng, khiến xã hội tối tăm, u ám , khiến người dân sống không nổi,. Ở đây, những con người bị áp bức rất đông vì thế đã chứng minh được quy luật “ Quan bức dân phản” đã được Thi Nại Am phản ánh trung thực và đầy đủ trong tác phẩm. Bên cạnh bọn bốc lột nắm chính quyền, còn có cả một tập đoàn cường hào áp bức, có quyền có tiền, có thế mặc sức đè đầu cưỡi cổ dân chúng như bọn cường hào, tác giả đã vạch trần được sự cấu kết sâu sắc và thường xuyên giữa hai thế lực đó trong việc áp bức bốc lột dân nghèo, như thiên la địa võng vây bủa, khiến cho sự vùng lên của họ lại càng tất yếu. Dưới sự áp bức bốc lột tà khốc của triều đình Bắc Tống, không chỉ người nông dân bần cùng đứng lên phản kháng, mà quan lại triều đình như Tống Giang, Lâm Xung hoặc con cháu nhà danh tướng như Dương Chí,.., thậm chí những người xuất thân từ giai cấp địa chủ, dòng dõi quý tộc như Sài Tiến, Lư Tuấn Nghĩa cũng tích cực chống lại chúng. Họ từ bỏ quyền cao chức trọng, tình nguyện đi theo tiếng gọi của nghĩa quân, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho sự nghiệp chung. Sự phát triển của khởi nghĩa nông dân trong xã hội phong kiến Trung Quốc: Dưới ngọn cờ “Thiên thế hành đạo, bảo cảnh an dân”,các anh hùng hảo hán liên hiệp thành lực lượng hùng hậu hoàn toàn đối kháng với giai cấp thống trị. Hành động của họ là không còn phục thù cá nhân cá như xưa. Từ hồi 41 các anh hùng Lương Sơn Bạc đã chuyển sang thế tấn công với những chiến công lẫy lừng: ba lần đánh Chúc gia trang, hai lần đáng chợ Tăng Đầu, công kích Thanh Châu,..,Đang lúc phong trào lên cao như nước vỡ bờ thì Tống Giang ngỏ ý lập đàn chay và cầu mong triều đình chiêu an. Từ đó cuộc khởi nghĩa đi đến kết thúc bi thảm. Nhưng trong khi lực lượng lớn mạnh có khả năng uy hiếp sự thống trị của triều đình Bắc Tống, thì vua Tống không thể làm ngơ. Thái úy Trần Tôn Thiện lãnh chiếu chỉ của Tống Huy Tông đích thân đến Lương Sơn Bạc. Tất nhiên cũng lắm gian nan vất vả Trần Tôn Thiện mới dụ nổi những con hổ quen vùng vậy đất Lương Sơn. Từ đầu tác phẩm tác giả tả một loạt anh hùng xuất hiện với những hành vi nghĩa hiệp nổi tiếng trong thiên hạ như Lỗ Trí Thâm gặp sự bất bình giết tên ác bá Trịnh Đồ cứu cha con Lão Kim. Bảy anh em Triều Cái: Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, dùng mưu đạt mười quan vàng bạc châu báu của thái thú Lương Trung Thu chia cho dân nghèo,...., Lực lượng Lương Sơn Bạc không ngừng lớn mạnh, ngọn cờ” thế thiên hành đạo” tung bay trước gió. Theo lời hô của Cập Thời Vũ Tống Công Minh (Tống Giang), anh hùng bốn phương tụ tập tại Trung Nghĩa, đáng phủ Cao Đường, Thanh Châu,.., Kết thúc bản bảy mươi mốt hồi là việc Tống Giang lập đàn tràng tụng niệm oan hồn Triều cái, những kẻ thác oan và việc anh hùng Lương Sơn Bạc chia ngôi thứ bậc, họ cùng nhau chích máu ăn thề: “ chẳng bao giờ sinh nhị tâm, nguyện sống chết có nhau, họan nạn giúp đỡ, đồng lòng giữ nước yên dân”. Sau khi về triều đình, một trăm linh tám anh hùng Lương Sơn Bạc đi dẹp loạn mười vạn quân Liêu, đang đánh chiếm đất Cửu Chân, sau đó đi dẹp Điền Hổ, Vương Khánh. Trong các trận chiến đấu này lực lượng của anh em Tống Giang vẫn nguyên vẹn như xưa không mất một ai. Số thương vong đều là những người mới nhập nghĩa quân. Tiếp đó là trận chiến đấu khốc liệt của anh em Tống Giang với nghĩa quân Phương Lạp . Lần này lực lượng của Tống Giang bị tổn thất nặng nề, phần lớn đều bị hy sinh và thương tổn. Saucuộc chiến đấu với nghĩa quân Phương Lạp lực lượng của anh em Tống Giang từ một trăm linh tám nay chỉ còn lại hai mươi bảy người, số sống xót trở về họ được triều đình phong thưởng, nhưng từ đây số phận họ cũng bị nhiều hiếp. Bốn tên gian tặc trong triều là Sái Kinh, Đồng Quan, Cao Cầu, Dương Tiễn bưng bít Huy Tông Tìm cách ám hại anh em Tống Giang. Và cuối cùng cuốc khởi nghĩa đã đã đi đến thất bại. Sự thất bại của khởi nghĩa nông dân trong Thủy hử đã tái hiện lên một bức tranh phong kiến đương thời Trung quốc đầy ấn tượng và sâu sắc: Kết cục bi thảm do việc chiêu an gây ra đã được tác giả tái hiện một cách trung thực trong bầu không khí thê lương, phẫn uất của nủa sau của truyện. Tuy nhiên cấn thấy có mấy dạng kết cục trong khỡi nghĩa nông dân trung Quốc lúc bấy giờ. Một là sự thắng lợi của khởi nghĩa người đứng đầu sẽ lên làm vua. Hai là, sự thất bại tất yếu các lãnh tụ và quân khởi nghĩa sẽ bị dìm trong biển máu. Ba là “chiêu an”, giai cấp thống trị sẽ phải lùi bước để rồi mưu toan lợi dụng nghĩa quân đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa khác, tiếp úc chia rẽ trước hết là các lãnh tụ với nhau và cuối cùng tiêu diệt toàn bộ cuộc khởi nghĩa nông dân. Kết cục của Thủy hử là ở dạng thứ ba. Nhưng trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, giai cấp thống trị và nhân văn phong kiến không thể thực hiện được âm mưu của mình. Mấy trăm năm qua hình ảnh của người anh hùng áo vải vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Thái độ của nhân dân đối với nghĩa quân trong Thủy hử là thái đọ trân trọng và kính yêu. Tác phẩm Thủy hử đã nhấn mạnh sai lầm của Tống Giang, nhưng đây chỉ là nguyên nhân sâu xa từ những mặt còn bế tắc của xã hội. Khi cưa có một giai cấp và chính đảng của nó, thì khởi nghĩa nông dân trong xã hội phong kiến cho dù có “triều đình riêng”, thì hầu như các lãnh tụ nông dân kđều không biết làm gì nữa. Tống Giang cho dù có dựng cờ “thế thiên hành đạo”, phân chia ngôi thứ xong cũng chỉ còn cách chờ chiêu an mà thôi. Ngoài ra do nhãn quan chật hẹp, người nông dân xưa thường thấy ít tội ác của bọn vua chúa mà chỉ viên vào tội ác của quan lại, cho nên dù bất mãn với xã hội với triều đình, thì họ cũng chưa vươn tới tầm bất mãn với cả chế độ phong kiến đương thời. Thông qua con đường gian nan phức tạp lên Lương Sơn Bạc của Tống Giang, tác giả đã phản ánh được quy luật sinh thành, phát triển và kết thúc của khởi nghĩa nông dân dười chế độ phong kiesn, ý nghĩa nhận thức to lớn của tác phẩm cũng bộc lộ ra từ đây. Nó bộc lộ ra nhiều ảnh hưởng và tác dụng từ thực tiễn nhiều mắt trong đời sống xã hội. Đồng thời tác phẩm cũng được đánh giá cao về giá trị nhận thức về những tư tưởng được thể hiện trong tác phẩm. Câu 3: Phân tích hình tượng nhân vật Tống Giang, Lâm Xung…(chú ý quá trình phát triển tính cách nhân vật) Thủy Hử là một tác phẩm có hệ thống nhân vật đồ sộ . Mỗi nhân vật được khắc họa với một nét tính cách riêng đặc trưng, tạo ra cho người đọc những ấn tượng riêng không trùng lặp. Ở đây chỉ xin nói về một số nhân vật tiêu biểu nhất Hình tượng nhân vật Tống Giang: Tống Giang là thủ lĩnh của nghĩa quân Lương Sơn và là người có những nét tính cách khá phức tạp. Có thể nói, phần nào tư tưởng của Thủy Hử được thể hiện qua nhân vật này.Tống Giang là nhân tố xây dựng nghĩa quân Lương Sơn hùng mạnh nhưng cũng chính ông là nhân tố khiến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lương Sơn bị tan rã hoàn toàn Con đường lên Lương Sơn của Tống Giang rất phức tạp. Tống Giang xuất thân từ một gia đình tiểu địa chủ, làm áp ti ở huyện Vận Thành “tinh thông đao bút, quen thuộc đường quan”, sống quanh quẩn bên tập đoàn thống trị. Cuộc sống thực tại khiến ông ta cảnh giác phần nào với sự hãm hại của thế lực Phong Kiến. Ông ta đã đào sẵn một cái hầm ngầm trong nhà để khi xảy ra chuyện thì ẩn thân, lại xui cha mẹ nói rằng bở ông ta ngỗ ngược nên cho ra ở riêng. Nhưng chỉ cần thế lực phong kiến không chèn ép lên đầu ông ta thì ông ta sẵn sàng thỏa hiệp làm một kẻ trọng nghĩa khinh tài kết giao anh hùng hảo hán. Bình sinh Tống Giang chỉ thích kết giao với những bậc trượng phu nghĩ khí, hễ có người đến tìm, dù sang hèn đều dung nạp cả, giữ lại trong trang trại cho ăn ở, khi nào đi thì cho tiền bạc. Vì vậy Sơn Đông Hà Bắc gọi ông là Cập Thời Vũ , nghĩa là cơn mưa kịp thời của trời đất. Do gần gũi với nhân dân nên ông ta hiểu được nỗi khổ của nhân dân và phần nào nhận thức được bộ mặt thật của xã hội phong kiến. Vì thế phản kháng và thỏa hiệp là hai đặc điểm chủ yếu được biểu hiện rõ nét ở con người Tống Giang . Khi Tống Giang nghe tin bọn Tiều Cái đánh chiềm Lương Sơn Bạc, đánh lui quan quân, ông ta cho rằng họ phạm tội đáng giết 9 họ, “tuy bị người bức bách, vạn bất đắc dĩ phải thế, nhưng pháp luật thì không tha được”. Rõ ràng Tông Giang đứng trên lập trường bênh vực chế độ phong kiến và pháp luật chính trị phong kiến. Giết Diêm Bà Tích là hành động phản kháng mở đầu của ông ta. Sau việc này ông ta không thể không trốn tránh được. Nhưng ông ta vẫn chưa lên Lương Sơn Bạc theo Tiều Cái. Ông ta chỉ muốn dựa vào sự che chở của Khổng Thái Công, Sài Tiến, để tìm nơi lánh nạn mà thôi. Sau khi đại náo trại Thanh Phong, bị quan quân vây bắt cùng đường ông mới dẫn Hoa Vinh, Tần Minh lên Lương Sơn Bạc. Giữa đường lại gặp bức thư giả của cha lừa về ông ta ngoan ngoãn chịu nhận lệnh quan đi đầy. Trên đường tới Giang Châu sung quân, ông viện mọi lí do để từ chối sự cứu viện của Tiều Cái: “Nếu tôi theo anh thì trên nghịch lẽ trời, dưới trái lời cha mà trở thành người bất chung bất hiếu”. Đạo đức phong kiến đã khống chế suy nghĩ và hành động của Tống Giang Lúc ông ta làm thơ phản trên lầu Tầm Dương mới là mấu chốt quan trọng trong quá trình chuyển biến tính cách của ông ta. Đứng dựa lan can uống rượu tiêu sầu, nghĩ chuyện nay xưa mà xót xa, sầu muộn, ngẫm mình “xuất thân làm thư lại kết giao với bao nhiêu là hảo hán giang hồ chỉ để lại cái hư danh. Nay đã ngoại tam tuần, danh không thành, công chẳng lập, lại bị thích chữ vào má mà đày tới đây…” Men rượu cùng nỗi muộn sầu đã khiến Tông Giang hứng bút lên làm bài thơ phản Tha niên nhược đắc báo oan thù Huyết nhiễm Tầm Dương giang khẩu Tha thời nhược toại lăng vân chí Cảm tiếu Hoàng Sào bất trượng phu (Ngày nào rửa sạch oan thù ấy Thì nước Tầm Dương máu đỏ ngầu Một mai thỏa cánh bằng tung gió Khinh cả Hoàng Sào chửa trượng phu) Vì bài thơ đó mà Tống Giang bị ghép tội chết. Anh em Lương Sơn Bạc lại một phen cướp pháp trường cứu mạng Tống Giang. Lúc này Tồng Giang mới quyết định đi theo nghĩa quân Lương Sơn Khi hội tụ cùng nghĩa quân Lương Sơn, tài năng trí tuệ cùng lòng nhân đức của Tống Giang đã cảm hóa được lòng người khiến bốn phương đâu đâu là không biết tiếng. Với các anh em, Tống Giang nhất loạt bình đẳng, không phân biệt cao thấp sang hèn,sướng cùng hưởng, họa cùng chịu, sồng chết có nhau, không ngại hy sinh vì điều trượng nghĩa…Ông chính là người gắn kết các anh hùng Lương Sơn. Tuy nhiên con người này luôn ảo tưởng về một triều đình có thể thay đổi được, và Tống Giang luôn ôm mộng “bó thân về với triều đình”,trước sau khao khát được “phong thê ấm tử, thanh sử lưu danh” “Vọng thiên vương giáng chiếu Tảo chiêu ân, tâm phương túc” (Mong nhà vua giáng chiếu Sớm chiêu an,mới yên lòng) Hạn chế của Tống Giang cũng là hạn chế của thời đại khi mà người dân có thể nổi lên chống lại những ông vua hèn, nhưng lại hi vọng có những ông quan thanh liêm. Chính điều này đã góp phần làm nên sự đổ vỡ và thất bài của nghĩa quân Lương Sơn sau này. b. Hình tượng nhân vật Lâm Xung. Lâm Xung là nhân vật không thể không nhắc tới trong Thủy Hử của Thi Nại Am.Một con người võ nghệ cao cường tài năng xuất chúng,Lâm Xung xuất hiện trong Thủy Hử từ hồi thứ 6 tới hồi 11 đã miêu tả khá chi tiết về nhân vật Lâm Xung. Hoàn cảnh của Lâm Xung trước khi lên Lương Sơn Bạc. Lâm Xung xuất thân trong gia đình con nhà võ bố làm Đề hạt tại phủ Đông Kinh, bản thân Lâm Xung là người học võ nối nghiệp cha,làm Đô đầu thống lĩnh tám mươi vạn cấm quân ở kinh thành.Vào một hôm Lâm Xung cùng vợ là Trương thị và người hầu Cẩm nhi đi nhạc miếu cầu nguyện.Thì gặp Cao Nha Nội con nuôi của Cao Cầu trọc ghẹo,từ đấy Cao Nha Nội cùng Lục Khiêm và Phú An tìm cách hại Lâm Xung,khi chúng bày ra kế bán đao và dụ Lâm Xung tới “Bạch hổ đường”và bắt giam Lâm Xung từ đó Lâm Xung làm kẻ tội phạm,khi quan phủ sử án biết chuyện Lâm Xung bị oan nhưng bị Cao Cầu ép.Lâm Xung phải chịu lưu đầy Thương Châu. Từ đây Lâm Xung bước vào cuộc li biệt,bị kẻ gian bức ép tới bức đường cùng, khi Lục Khiêm gặp hai tên công sai là Tiết Bá và Đổng Siêu để tìm cách hãm hại,khi đi tới khu rừng Giã Trư Lâm bọn chúng định giết Lâm Xung may có Lỗ trí Thâm kịp thời cứu thoát và đưa đi tới gần Thương Châu, trên đường đi Lâm Xung vào nhà Sài Tiến, được thiết đãi và sài Tiến giúp đỡ gửi thư tới Thương Châu nhờ vả quan quân ở đó giúp đỡ Lâm Xung. Khi tới Thương Châu nhờ hối lộ tên Sai phát và tên Quản dinh.Lâm Xung được đưa tới Thiên Vương Đường trông giữ,tưởng vậy Lâm Xung yên phận thân tù nào ngờ Lục Khiêm,Phú An và Sai phát tìm cách hãm hại khi điều Lâm Xung tới Thảo Liệu Đường. Lâm Xung liền giết chết cả ba tên chặt đầu đem vào miếu tế thần,được sự giúp đỡ của Sài Tiến,Lâm Xung tới Lương Sơn Bạc để ẩn mình. Tích cách và con người Lâm Xung. Lâm Xung xuất hiện với một dung mạo “đầu bịt khăn xanh,mình mặc bạc bào tay cầm quạt Tây Xuyên,đầu beo mắt tròn,hàm én,râu cọp,mình cao tám thước”.Với hình ảnh miêu tả trên ta có thể hình dung giáng dấp của Lâm Xung và con người Lâm Xung. Bản thân Lâm Xung xuất thân trong gia đình con nhà võ tướng,tuy không to tát nhưng cũng có danh tiếng “khi tôi còn nhỏ thì cũng nghe danh lệnh tôn là Lâm đề hạt ở Đông kinh”,khi nghe Lỗ trí Thâm nói về cha của Lâm Xung,bố vợ của Lâm Xung cũng là một giáo đầu ở nha huyện. Trong Thủy Hử Lâm Xung lằm trong ba mươi sáu “thiên địa cang”là một trong những tướng giỏi võ nghệ nhất trong một trăm linh tám vị anh hùng Lâm Xung giỏi múa Thương trượng “bát sà mâu”được gọi là “báo tử đầu”bản thân Lâm Xung là một võ tướng an phận thủ thừa.là một quan sai phục vụ triều đình đúng với trọng trách của mình. Bản tính luôn khiêm nhường tính vị nể nhu nhược,khi thấy Cao Nha Nội trọc ghẹo vợ mình Lâm Xung định lao vào đánh nhưng nhận ra là con của Cao Thái Úy đành nhịn lại “song e mích lòng Cao Thái Úy cho nên phải nhịn nó một phen”. Đặc biệt khi Lục Khiêm vốn là bạn thân của