Hôn nhân và gia đình là một lĩnh vực quan trọng cần được Nhà nước cũng như toàn xã hội quan tâm hàng đầu bởi gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người cả nhân cách và thể chất. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã có rất nhiều những quy định để đảm bảo sự bình đẳng trong hôn nhân và gia đình, đặc biệt là trong quan hệ giữa vợ và chồng. Xét trong mối quan hệ giữa vợ và chồng, chúng ta không thể không nói tới vấn đề tài sản, và đặc biệt là tài sản riêng. Vấn đề tài sản riêng và sự hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng đã làm này sinh rất nhiều vướng mắc trong quan hệ giữa vợ và chồng cũng như với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề này
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn sản riêng và sự hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU:
Hôn nhân và gia đình là một lĩnh vực quan trọng cần được Nhà nước cũng như toàn xã hội quan tâm hàng đầu bởi gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người cả nhân cách và thể chất. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã có rất nhiều những quy định để đảm bảo sự bình đẳng trong hôn nhân và gia đình, đặc biệt là trong quan hệ giữa vợ và chồng. Xét trong mối quan hệ giữa vợ và chồng, chúng ta không thể không nói tới vấn đề tài sản, và đặc biệt là tài sản riêng. Vấn đề tài sản riêng và sự hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng đã làm này sinh rất nhiều vướng mắc trong quan hệ giữa vợ và chồng cũng như với các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vấn đề này.
NỘI DUNG:
Tài sản riêng – xác định tài sản riêng:
Luật hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ hoặc chồng là những tài sản mà vợ hoặc chồng có trước thời kì kết hôn, tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế, tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ hoặc chồng chia từ khối tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân và những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó, đồ dùng, tư trang cá nhân. Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.”
Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ, chồng có quyền có tài sản riêng là phù hợp với chế định quyền sở hữu riêng về tài sản của công dân đã được hiếp pháp thừa nhận. Tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì vợ hoặc chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt độc lập không phụ thuộc vào ý chí của người kia.(Khoản 1 Điều 33). Vợ, chồng tự quản lí tài sản riêng của mình, trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không uỷ quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó (khoản 2, Điều 33). Và nghĩa vụ về tài sản riêng của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó(khoản 3 điều 33).
Nhưng trong việc sử dụng tài sản riêng, Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ, chồng có quyền sử dụng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, trong thời kì hôn nhân có những trường hợp xảy ra thì việc định đoạt tài sản riêng sẽ bị hạn chế.
Cơ sở pháp lí của quyết định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng:
Trong thời kì hôn nhân, tuy luật hôn nhân và gia đình có quy định vợ chồng có quyền định đoạt tài sản riêng của mình nhưng trong một số trường hợp quyền này bị hạn chế như: vợ chồng chung sống mà tài sản chung của hai người không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống thì tài sản riêng của mỗi người có thể bắt buộc phải đưa vào sử dụng; hoặc hoa lợi, lợi tức phát sinh khi sử dụng tài sản riêng của vợ hoặc chồng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng được quy định rõ tại khoản 4 và khoản 5 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
“4. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng.
5. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.”
Theo khoản 4 điều 33 Luật hôn nhân gia đình năm 2000: tài sản riêng của vợ hoặc chồng sẽ được sử dung dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Hơn nữa theo phong tục Việt Nam, không có sự phân chia tài sản riêng của vợ chồng, trên thực tế trong cuộc sống nhiều cặp vợ chồng tài sản riêng vẫn được đưa vào sử dụng chung mà không cần hỏi ý kiến người kia. Và đặc biệt khoản 5 Điều 33 là một quy định xuất phát từ thực tế nhằm đảm bảo cuộc sống gia đình ổn định. Mặc dù theo luật định, vợ chồng có quyền có tài sản riêng, nhưng thực tế, cuộc sống chung của vợ chồng thường không phân biệt các tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng, và quy định trên nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống chung của vợ chồng,nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ chồng, nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Như vậy, phù hợp với mục đích của hôn nhân xã hội chủ nghĩa, cũng là đảm bảo lợi ích chung của cả xã hội, vì gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Sự tồn tại bền vững của gia đình là cơ sở tạo cho xã hội ổn định và phát triển.Nội dung của điều khoản này không những đi từ thực tế hiện nay mà còn xuất phát từ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gia đình là tổ ấm, là nơi mà các thành viên che chở, đùm bọc, yêu thương lẫn nhau.
Vấn đề đặt ra là liệu khoản 5 điều 33 trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có mâu thuẫn với quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng hay không?
Câu trả lời là quy định như vậy là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
Cuộc sống chung giữa vợ chồng đòi hỏi sự gắn kết lâu dài, bền vững, hạnh phúc dựa trên sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Trách nhiệm vun đắp, xây dựng hạnh phúc gia đình, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau, nghĩa vụ nuôi dạy con cái thuộc về cả hai vợ chồng. Khi những nhu cầu thiết yếu để duy trì cuộc sống gia đình không thể được đáp ứng đủ bằng tài sản chung thì vợ, chồng có tài sản riêng không thể bỏ mặc, không quan tâm. Họ cần phải sử dụng tài sản riêng của mình để tạo ra nguồn thu nhập nhằm bảo đảm cho cuộc sống gia đình tồn tại và phát triển. Sự thực là khi đem tài sản riêng của mình đưa vào để sử dụng chung cả hai bên đều cho là đúng, hợp tình hợp lý không hề cần một giấy tờ ghi nhận nào cả, hai bên coi đó như điều hiển nhiên, ta có thể coi đó là sự thỏa thuận ngầm. Điều này hoàn toàn hợp lý cả về mặt đạo đức lẫn quy định pháp luật, xuất phát từ tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân .
Những hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng khi đã được đưa vào sử dụng chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, có nghĩa là nếu “cắt bỏ” những hoa lợi, lợi tức đó thì đồng nghĩa với việc cuộc sống chung của gia đình sẽ không thể tồn tại được. Theo điều 4 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 cũng đã nói rõ về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng thì sự thoả thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực...). Có nghĩa là không ai có quyền đơn phương định đoạt tài sản đó đây không phải là duy trì sở hữu cá nhân mà là cơ sở để đảm bảo duy trì đời sống gia đình, là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm vợ chồng với gia đình. Những tài sản đã chi dùng cho gia đình thì người có tài sản không có quyền đòi lại nữa. Vì vậy, người vợ hoặc chồng có tài sản riêng đó cần phải suy xét, cân nhắc vừa vì lợi ích riêng của mình vừa vì lợi ích chung của gia đình. Điều này cũng có nghĩa rằng, khi vợ hoặc chồng định đoạt tài sản riêng của mình, thì nhất thiết phải có sự thỏa thuận của người kia. Quy định này còn xuất phát từ cách điểu chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình, đó là: các chủ thể khi thực hiện quyền của mình phải xuất phát từ lợi ích của gia đình, tạo điều kiện để gia đình làm tốt chức năng xã hội của nó.
Những vướng mắc khi thực hiện quyết định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vơ hoặc chồng:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất rõ ràng về việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng trên thực tế khi thực hiện thì đã nảy sinh không ít vướng mắc kể cả từ phía hai bên vợ chồng hay là từ phía cơ quan có thẩm quyền giải quyết khi tranh chấp xảy ra.
Khoản 5 điều 33 quy định:”tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của hai vợ chồng”. Như vậy , theo điều khoản này, chúng ta có sẽ không thể phân định đc liệu hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân là tài sản riêng hay chung của vợ, chồng? Xét trường hợp nó được xem là tài sản chung, sẽ dẫn đến những vướng mắc sau:
Thứ nhất, ảnh hưởng đến quyền tự định đoạt của chủ sở hữu ; hạn chế việc tham gia vào các giao dịch ngoài xã hội, thậm chí không đảm bảo lợi ích của người tham gia giao dịch:
Ví dụ:
Anh A kết hôn với chị B năm 2000.Tại thời điểm kết hôn, chị B đã có 3 căn hộ riêng.Sau khi kết hôn,chị B đã quyết định cho thuê 3 căn hộ đó, và số tiền thu được từ 3 căn hộ cho thuê này là thu nhập duy nhất của gia đình.Sau 3 năm,số tiền thu được từ việc cho thuê căn hộ đã lên tới 200 triệu đồng.Nếuchị B muốn đầu tư 200 triệu này vào kinh doanh lại phải được sự đồng ý của anh A.Trong trường hợp anh A không đồng ý thì sẽ phải giải quyết thế nào?Hoặc sự thỏa thuận đó diễn ra quá lâu trong khi việc làm ăn kinh doanh của chị B lại đang cần đc đầu tư gấp?
Như vậy, rõ ràng, trong trường hợp này, việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng đã đồng thời hạn chế những quyền lợi của chị B, tức chủ sở hữu tài sản.
Mặt khác, giả thiết trong trường hợp chị B nhất quyết đầu tư kinh doanh dù khồng có sự đồng ý của anh A thì chị có thể “lách luật” bằng cách rút dần tài sản riêng của mình ra khỏi việc sử dụng chung.Vậy thì ở đây, nó lại có thể gây ra những ảnh hưởng bất lợi về phía anh A(bên không có tài sản).Bởi lẽ, tuy anh A không phải là chủ sở hữu nhưng A đã thực hiện nghĩa vụ duy trì bảo quản tài sản đó.
Thứ hai, quy định này cùng đã phần nào đó gây nên sự không công bằng cho người có công lao nhiều đối với tài sản.
Ví dụ:
A và B là vợ chồng có Tài sản chung là 200 triệu đồng.Trong khi hôn nhân đang tồn tại, 2 người đã thỏa thuận chia tài sản chung đó, và mỗi người được hưởng 100 triệu đồng, và tham gia đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác nhau. Sau mấy năm, anh A thu về được số lợi nhuận là 200 triệu. Còn chị B thì làm ăn thua lỗ, sô tiền 100 triệu đã bị mất gần hết. Lúc này, chị B yêu cầu đc chia tiếp phần tài sản (lợi nhuận) phát sinh của ông A (vì chúng ta đang xét nó thuộc tài sản chung). Liệu điều này có phù hợp với thực tế công lao của anh A hay không?
Vướng mắc thứ 2 chúng ta có thể thấy trong thực tế khi thực hiện quy định này, đó là xác định “sự thỏa thuận” của vợ chồng? Như thế nào thì có thể xem là thỏa thuận hợp pháp của hai vợ chồng? Theo luật định thì đó phải là sự thỏa thuận bằng văn bản. Nhưng liệu trong thực tế,có phải sự thỏa thuận nào của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực - khoản 1 Điều 4 NĐ70/2001)? Rất khó, rất hiếm xảy ra trường hợp này.
Vậy khi có tranh chấp xảy ra đối với hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung đã chia, Tòa án phải giải quyết như thế nào để đảm bào quyền công bằng hợp lý ? Nhất là trong trường hợp chúng ta coi hoa lợi lợi tức này là tài sản riêng.
Ví dụ:
A và B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 500 triệu đồng, đã thoả thuận bằng văn bản chia tài sản chung để A kinh doanh riêng để tránh rủi ro cho gia đình. Hai bên vẫn hạnh phúc và sống chung, mỗi người được 250 triệu đồng. Sau khi chia tài sản thì A nói với B là lương của B sẽ chi tiêu cho gia đình còn A kinh doanh để tích luỹ cho gia đình. Hàng tháng lợi nhuận phát sinh từ số tiền đầu tư của A là 30 triệu, lương của B là 2 triệu. Khi hai người sinh con, B đã nghỉ làm nên A đã dùng một phần số lợi tức thu được hàng tháng vào cho việc tiêu dùng gia đình. Sau này, A đã có hành vi ngoại tình và dùng số tiền lợi tức đó cho người tình của mình. B đã yêu cầu xin li hôn và đòi lại số tiền A đã cho người tình.
Vướng mắc ở đây là B lập luận rằng số lợi tức mà A thu được hàng tháng là nguồn sống duy nhất cho gia đình nên khi sử dụng, định đoạt tài sản đó thì phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng. Còn A thì cho rằng mình đã trích một phần số lợi nhuận hàng tháng vào việc tiêu dùng gia đình nên chỉ có phần đã trích ra là phần tài sản mà B được quyền thỏa thuận định đoạt, số tiền còn lại A cho ai và sử dụng như thế nào B không có quyền can thiệp.
Vậy Tòa án sẽ giải quyết tranh chấp này như thế nào?
Qua việc phân tích trên, chúng ta đã tìm ra được một số điểm vướng mắc trong việc hạn chế quyền định doạt tài sản riêng của vợ chồng mà Dự thảo Luật hôn nhân và gia đình mới cần thiết phải quy định cụ thể, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan của xã hội, góp phần nhằm làm ổn định đời sống hôn nhân gia đình.
Một số ý kiến đưa ra nhằm khắc phục những vướng mắc khi thực hiện quyết định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng:
Qua những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy tuy rằng pháp luật đã quy định rất rõ ràng về việc hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng vẫn có nhiều vương mắc khi thực hiện. Hệ thống phápluật Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi hạn chế. Bởi lẽ cuộc sống là vô cùng đa dạng, phong phú và cũng đầy rắc rối. Pháp luật có thể đề cập đến một vấn đề nhưng khó có thể tìm thấy tất cả các khía cạnh của nó. Nhiều khi, khó có thể áp dụng một điều khoản hoàn toàn giải quyết trường hợp nào đó. Vì vậy Quốc hội và các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần bám sát vào thực tế để tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi và bổ sung, vươn tới một hệ thống chặc chẽ, hoàn thiện hơn.
Cơ quan tư pháp là cơ quan nhà nước duy nhất giải quyết các vụ việc pháp luật liên quan đến con người nhưng không phải luôn luôn đúng. Có những trường hợp rắc rối đòi hỏi cả tình lẫn lý và có những phán quyết nhầm lẫn. Những phán quyết này làm phương hại đến quyền của chủ thể. Bởi vậy, trong khi xem xét, tòa án cần tìm hiểu, cân nhắc kĩ, tránh những phán quyết đáng tiếc đưa ra.
Quy định rõ ràng “Hoa lợi lợi tức phát sinh trong thời kì hôn nhân từ tài sản riêng là thuộc về tài sản riêng.Người sở hữu có toàn quyền quyết định với tài sản đó”
Trong trường hợp đó, lợi tức sinh ra được bắt buộc phải sử dụng vào đời sống chung của gia đình dù có thuộc tài sản riêng. Đồng thời, cũng phải quy định , có thể xét đến công lao đóng góp giữ gìn bảo vệ, hoặc góp phân phát sinh hoa lợi lợi tức đó để không ảnh hưởng đến quyền lợi của bên còn lại.
Thứ hai, có thể xem xét căn cứ về sự thỏa thuận của vợ chồng có thể bằng văn bản, nhưng cũng có thể sự thỏa thuận đó được chứng kiến đảm bảo bởi 1 người thứ ba.
Nhưng để giải quyết những vướng mắc trước hết vẫn bắt nguồn từ bản thân mỗi người. Mỗi cá nhân cần có cho mình một khối lượng tri thức nhất định về Luật, trong đó có Luật Hôn nhân và gia đình. Để đưa nhân dân tới gần pháp luật hơn, cần nhiều chương trình tuyên truyền, giáo dục pháp luật hơn, đa dạng và phong phú hơn. Từ đây giúp phần nào thay đổi hành vi của con người, con người biết tôn trọng bản thân mình, phân định được quyền sở hữu và tài sản riêng trong thời kì hôn nhân. Không chị tôn trọng mình, họ còn tôn trọng người khác. Điều 32, 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 rõ ràng đã bảo vệ quyền lợi cua người phụ nữ. Vì trước kia, người vợ ly dị thường phải ra đi tay trắng. Đây là một thiệt thòi lớn đối với công sức người vợ bỏ ra chăm sóc gia đình.
KẾT LUẬN:
Vấn đề hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng là một vấn đề quan trọng trong quy định về định đoạt tài sản trong hôn nhân. Pháp luật vừa phải bảo vệ quyền lợi của cả vợ và chồng nhưng cũng vẫn phải bảo vệ được quyền lợi riêng của mỗi bên. Cùng với việc kinh tế ngày càng phát triển, của cải vật chất được làm ra càng nhiều thì việc đưa ra những giải pháp vừa hợp tình, vừa hợp lý để xác định quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng mang một ý nghĩa đặc biệt trong xã hội.