Nước ta đang trên con đường đổi mới phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh và kiên định đi theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh pháp luật về sở hữu, các hình thức sở hữu càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Một chế độ sở hữu thích hợp cùng với các hình thức sở hữu phong phú cho phép nhà nước thông qua pháp luật điều chỉnh các lợi ích một cách hài hòa, bảo vệ lợi ích của người dân.
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3537 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Về các hình thức sở hữu trong bộ luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Đặt vấn đề ………………………………………………….. 1
Nội dung :
A . Các hình thức sở hữu qui định trong bộ luật dân sự…………. 1-11
I. Sở hữu nhà nước…………………………………………….. 1-3
II . Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, … 3-4
tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
III. Sở hữu tư nhân……………………………………………. 4-6
IV. Sở hữu tập thể……………………………………………… 6-7
V. Sở hữu chung………………………………………………. 7-11
B. Một số kiến nghị về hình thức sở hữu trong bộ luật dân sự......... 11-12
Kết luận.................................................................................... 13
Đặt vấn đề :
Nước ta đang trên con đường đổi mới phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh và kiên định đi theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh pháp luật về sở hữu, các hình thức sở hữu càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Một chế độ sở hữu thích hợp cùng với các hình thức sở hữu phong phú cho phép nhà nước thông qua pháp luật điều chỉnh các lợi ích một cách hài hòa, bảo vệ lợi ích của người dân.
Nội dung :
A . Các hình thức sở hữu qui định trong bộ luật dân sự.
I. Sở hữu nhà nước.
1.Khái niệm :
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước là người đại diện cho nhân dân quản lí, nắm giữ những tư liệu sản xuất, là chủ sở hữu đối với tài sản được qui định tại điều 200 BLDS Việt Nam năm 2005 và Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt đối với các tài sản đó.
Quyền sở hữu nhà nước là tổng hợp các qui phạm pháp luật nhằm :
- Xác nhận việc chiếm hữu của Nhà nước đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, quan trọng nhất
- Quy định về nội dung và trình tự thực hiện các quyền năng chiếm hữu , sử dụng và định đoạt đối với tài sản của nhà nước.
- Xác định phạm vi, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp do nhà nước thành lập trong việc quản lí nghiệp vụ những tài sản do nhà nước giao theo qui định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ kinh doanh, quản lí hoặc hoat động công ích.
2. Chủ thể của sở hữu nhà nước :
Nhà nước tham gia quan hệ quyền sở hữu với cách là chủ thể đặc biệt và là chủ thể duy nhất đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu, Nhà nước là một tổ chức đại diện cho nhân dân nắm và quản lý toàn bộ tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thông qua Quốc hội đề xuất và tự quy định cho mình những biện pháp, hình thức, trình tự thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của đất nước, quy định về quyền hạn của mình trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của toàn dân.
3. Khách thể của sở hữu nhà nước:
Khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng, phạm vi điều chỉnh khách thể không bị hạn chế. Có những loại tài sản chỉ thuộc sở hữu nhà nước như : Đất đai, rừng núi, sông hồ, nước, tài nguyên thiên nhiên, các loại tài sản trong lòng đất thuộc thềm lục địa Việt Nam… đó là những tư liệu sản xuất chủ yếu quyết định đến việc phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh, quốc phòng của Việt Nam. Những loại tài sản này gọi là khách thể đặc biệt của quyền sở hữu nhà nước.
4. Nội dung sở hữu nhà nước:
a. Quyền chiếm hữu :
Nhà nước thực hiện quyền chiếm hữu bằng cách ban hành các văn bản pháp quy, quy định về bảo quản, quy định thể lệ kiểm kê tài sản định kỳ và đột xuất để kiểm tra tài sản mà nhà nước đã giao cho các cơ quan doanh nghiệp nhà nước. Các cơ quan, doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện các qui định này.
b. Quyền sử dụng
Nhà nước là chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất quan trọng, có quyền khai thác công dụng của tài sản đó. Nhà nước khai thác lợi ích tài sản theo qui định của pháp luật và theo một kế hoạch nhất định. Nhà nước thành lập những cơ quan quản lí tài sản như : Quản lí hành chính kinh tế hoặc quản lý sản xuất, kinh doanh. Quyền sử dụng tài sản được nhà nước chuyển giao cho các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước để quản lí và khai thác công dụng hoặc được nhà nước chuyển giao cho cho các tổ chức cá nhân thông qua các hợp đồng dân sự hay thủ tục hành chính nhất định.
c.Quyền định đoạt
Quyền định đoạt tài sản là quyền năng cơ bản của sở hữu nhà nước. Nhà nước định đoạt tài sản của mình bằng nhiều phương thức khác nhau. Nhà nước có thể chuyển giao tài sản cho các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức, cá nhân… những chủ thể này được quyền sử dụng tài sản để thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhà nước thành lập những cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương để trực tiếp quyết định việc chuyển giao tài sản trong phạm vi chức năng, quyền hạn do pháp luật qui định.
II . Sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Khái niệm:
Sở hữu của tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp là một phạm trù kinh tế để chỉ một loại hình sở hữu về tài sản là những cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị,…của các tổ chức đó. Sở hữu của các tổ chức là sở hữu chung không chia của các thành viên trong tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ, mục đích được ghi trong điều lệ. Nhiệm vụ, mục đích hoạt động của các tổ chức trên đây có thể thuộc các lĩnh vực khác nhau như : chính trị, xã hội, nhân đạo hoặc nghề nghiệp…. Tuy nhiên các tổ chức sử dụng tài sản để duy trì hoạt động của mình là chủ yếu.
2.Chủ thể của quan hệ sở hữu tài sản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
Mỗi tổ chức là một chủ sở hữu riêng biệt đối với tài sản của tổ chức mình. Tổ chức có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo quy định của pháp luật, theo điều luật và theo nghị quyết của cơ quan cao nhất trong tổ chức mình.
Khách thể của sở hữu của các tổ chức.
Khách thể của quan hệ sở hữu các tổ chức là các tài sản cụ thể, xác định của một tổ chức. Tài sản đó có thể là những cơ sở vật chất, các trang thiết bị dùng để phục vụ cho quá trình hoạt động của tổ chức hoặc các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước đã chuyển giao quyền sở hữu là tài sản thuộc sở hữu của tổ chức đó. Phạm vi khách thể thuộc sở hữu của các tổ chức rất phong phú và đa dạng. Các tổ chức đó có thể có quyền sở hữu tất cả loại tài sản mà chủ sở hữu khác có, trừ những tài sản thuộc sở hữu nhà nước như qui định tại điều 200 BLDS Việt Nam.
Nội dung sở hữu của tổ chức.
Nội dung sở hữu của các tổ chức thể hiện ở việc làm chủ, chi phối và quản lí tài sản.
Quyền chiếm hữu : Các tổ chức kiểm soát tài sản của mình bằng nhiều phương thức khác nhau như ban hành các nội quy, quy định nội bộ ….
Quyền sử dụng : Các tổ chức có quyền khai thác công dụng của tài sản để thực hiện chức năng của tổ chức đó. Các tổ chức có thể giao tài sản cho một bộ phận, một đơn vị trực thuộc để đầu tư vào sản xuất hoặc trực tiếp khai thác giá trị cảu tài sản.
Quyền định đoạt : Tổ chức có quyền quyết định về việc sử dụng, chuyển giao, mua bán tài sản, ….là chủ sở hữu các tổ chức có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình nhưng phải phù hợp với mục đích hoạt động được qui định trong điều lệ.
III. Sở hữu tư nhân
Khái niệm :
Sở hữu tư nhân được qui định tại mục 3, chương XIII, phàn thứ điều 211 đến điều 213 BLDS. Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân công dân về tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần của công dân. Sở hữu tư nhân không còn có sự khác biệt với sở hữu cá nhân như trước đây nữa, nó gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân được nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển.
Chủ thể của sở hữu tư nhân
Chủ thể của sở hữu tư nhân là từng cá nhân công dân. Mọi cá nhân dù đã trưởng thành hay chưa trưởng thành, có hay không năng lực hành vi dân sự hoặc năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ đều có quyền sở hữu đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình theo qui định tại khoản 2 điều 15 BLDS.
BLDS Việt Nam ngoài qui định chủ thể sở hữu tư nhân là công dân Việt Nam còn công nhận các chủ thể sở hữu tư nhân là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài có vốn đầu tư về nước để sản xuất kinh doanh.
Khách thể của sở hữu tư nhân
Khách thể của sở hữu tư nhân là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân công dân. Tài sản đó có thể là những tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng. Phạm vi khách thể của sở hữu tư nhân của cá nhân, tiểu chủ, tư bản tư nhân được xác định cụ thể tại điều 58 hiến pháp năm 1992 và qui định tại khoản 1 điều 212 BLDS “Thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.”, tài sản hợp pháp không bị hạn chế về số lượng, giá trị.
Nội dung sở hữu tư nhân :
Quyền chiếm hữu : cá nhân có thể tư mình thực hiện quyền chiếm hữu tài sản hoặc thông qua một hợp đồng dân sự giao cho người khác thực hiện quyền chiếm hữu.
Quyền sử dụng : Cá nhân có quyền dùng vốn , công cụ và tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của mình để đưa vào sản xuất kinh doanh, phục vụ các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hoặc các mục điechs khác phù hợp với qui định của pháp luật. Pháp luật dân sự khuyến khích quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu tư nhân nhằm giải phóng sức sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Quyền định đoạt : Pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền định đoạt của cá nhân và cá nhân thực hiện quyền định đoạt của mình thì không được làm rối loạn hoạt động kinh tế, phá hoại kinh tế- chính trị ….
IV. Sở hữu tập thể
Khái niệm :
Sở hữu tập thể qui định tại các điều 208, 209, 210 BLDS Việt Nam năm 2005. Sở hữu tập thể là sở hữu của hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập thể ổn định khác do cá nhân, hộ gia đình cùng góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong điều lệ, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ, cùng quản lý và cùng hưởng lợi ( Điều 208). Thành quả lao động của hợp tác xã không những chỉ phục vụ cho quyền lợi của từng xã viên mà còn phục vụ cho lợi ích chung cho toàn xã hội. Vì vậy sở hữu tập thể là nền tảng, là cơ sở để phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.
Chủ thể của sở hữu tập thể:
Chủ thể của sở hữu tập thể chính là các hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp và các ngành, nghề khác Luật hợp tác xã năm 2003 ghi nhận hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ, do những người lao đọng có nhu cầu , lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn lập ra theo qui định của pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp luật về sở hữu tập thể là từng hợp tác xã riêng biệt. Mỗi hợp tác xã với tư cách là chủ thể của sở hữu tập thể có quyền sở hữu đối với toàn bộ tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các thành viên, thu nhập hợp pháp do sản xuất, kinh doanh, được nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác hợp pháp theo qui định của pháp luật.
Khách thể của sở hữu tập thể:
Khách thể của sở hữu tập thể bao gồm các tư liệu sản xuất, công cụ lao động, vốn góp của xã viên, các loại quĩ do hợp tác xã lập ra… tất cả tài sản nguồn đóng góp của các thành viên, được nhà nước hỗ trợ hoặc từ các nguồn khác hợp pháp theo qui định của pháp luật là một khách thể thống nhất mà mỗi xã viên sẽ được sử dụng theo quyết định của ban quản trị. Ngoài ra hợp tác xã còn sở hữu đối với các loại quỹ do hợp tác xã lập ra hoặc là vốn vay ngân hàng, vốn trợ cấp của nhà nước, các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước theo qui định cảu pháp luật.
Nội dung của sở hữu tập thể
Việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu tập thể phải tuân theo các qui định của pháp luật, phù họp với điều lệ rieng của tập thể, bảo đảm sự phát triển của sở hữu tập thể. Ban quản trị theo điều lệ và nghọ quyết của đại hội toàn thể xã viên giao tài sản sở hữu của tập thể cho các thành viên khai thác đáp ứng lợi ích của các thành viên. Các thành viên khi sử dụng tài sản thuộc sở hữu tập thể phải tuân theo nội qui sử dụng, có nghĩa vụ và có trách nhiệm bảo quản tốt tài sản được giao, có quyền được ưu tiên mua, thuê tài sản thuộc sở hữu tập thể.
V. Sở hữu chung
1. Khái niệm :
Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.(Điều 214 BLDS ).
Khi hai hay nhiều người có cùng có chung một tài sản thì những người đó được gọi là đồng sở hữu. Các đòng sở hữu trong sở hữu chung có quyền chung nhau quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.
Về chủ thể : Mỗi đồng chủ sở hữu chung khi thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất cả đồng chủ sở hữu khác. Tuy nhiên mỗi một đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung có vị trí độc lập và tham gia quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một chủ sở hữu độc lập.
Khách thể của sở hữu chung là thống nhất : Một tài sản hoặc một tập hợp tài sản. Tài sản này nếu đem chia tách về mặt vật lý .... thì sẽ không còn giá trị sử dụng như ban đầu. Ngoài ra còn do kết cấu, tính chất, tập quán , công dụng mà khách thể chỉ có thể là tài sản chung.
Quyền sử dụng : Quyền sử dụng tài sản chung được qui định tại điều 222 BLDS Việt Nam năm 2005. Các chủ sở hữu có thể thỏa thuận và lựa chọn hình thức : Cùng sử dụng, thay phiên nhau sử dụng, hoặc là tài sản gồm nhiều vật thì các chủ sở hữu thay nhau sử dụng từng vật.
Quyền định đoạt : ( qui định tại điều 223 BLDS ) mỗi đồng chủ sở hữu chung là một chủ thể độc lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đọat quyền sở hữu của mình theo thảo thuận hoặc theo qui định của pháp luật. Tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo qui định của pháp luật.
Các loại sở hữu chung :
Sở hữu chung theo phần :
Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung. ( Điều 216 BLDS ). Trong sở hữu chung theo phần mỗi đồng chủ sở hữu biết trước được phần quyền của mình đối với khối tài sản chung. Nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền của chủ sở hữu chung đó. Khi thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung theo phần phải được tiến hành trên cơ sở thỏa thuận và nhất trí giữa các đồng sở hữu theo qui định điều 221 BLDS.
Mỗi một đồng chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt phần quyền của mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung mà không ai có quyền ngăn cản. Việc chuyển phần quyền của một đồng chủ sở hữu thông qua việc mua, bán,... cho một người khác hoàn toàn không phải là việc trao cho người khác đủ một phần cụ thể của tài sản.
Sở hữu chung hợp nhất
Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. ( khoản 1điều 217 BLDS ) . Quyền sở hữu chung hợp nhất thường chỉ phát sinh trong quan hệ hôn nhân gia đình. Theo qui định tài điều 219 BLDS qui định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Trong thời kỳ hôn nhân thì không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ chồng trong khối tài sản chung. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung hợp nhất.
Trong sở hữu chung hợp nhất thì các chủ sở hữu chung có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức tù tài sản chung ngang nhau nếu không có thỏa thuận khác.
c. Sở hữu chung cộng đồng
Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, làng, bản, buôn, sóc, cộng đồng tôn giáo và các cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng. ( Điều 220 BLDS )
Sở hữu chung cộng đồng do đặc điểm lịch sử được tạo dựng trải qua nhiều thế hệ nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chung của tât cả các thành viên trong cộng đồng. Do đó các thành viên của cộng đồng cùng có quyền quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản theo tập quán hoặc thỏa thuận vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Tuy nhiên phải không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Trong khi quản lí và sử dụng tài sản chung cộng đồng thì các thành viên phải bàn bạc và thỏa thuận với nhau.
d. Sở hữu chung hỗn hợp :
+ Khái niệm : Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.
Trong sở hữu chung hỗn hợp các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thảo thuận theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện về tài sản và số lượng góp vốn để tiến hành sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Tính chất góp vốn, tài sản trong sở hữu chung hỗn hợp nên việc quản lý tài sản được thực hiện theo cơ chế hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị với tư cách là người quản lí tài sản, có các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tài sản đó, quyết định hướng kinh doanh phù hợp với qui định của pháp luật.
+ Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp :
Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp là các đơn vị được tổ chức dưới một hình thức nhất định theo qui định của pháp luật hiện hành trên cơ sở đóng góp vốn, tài sản từ các thành phần kinh tế khác nhau.
Các điều kiện để trở thành chủ sở hữu của sở hữu chung hỗn hợp :
- Phải tồn tại sự sở hữu khác nhau của các thành phần kinh tế về vốn.
- Phải có nhiều người có vốn muốn tham gia đầu tư vào sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận và có sự nhất trí thành lập công ty để góp vốn.
- Có sự đồng ý và cho phép của cơ quan nhà nước.
+ Khách thể của sở hữu chung hỗn hợp
Khách thể của sở hữu chung hỗn hợp là những tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ các nguồn khác phù hợp với qui định của pháp luật. Phạm vi khách thể của sở hữu chung hỗn hợp đa dạng và phong phú. Các tài sản là tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận cung thuộc khách thể của sở hữu chung hỗn hợp.
+ Nội dung của sở hữu chung hỗn hợp
Sở hữu chung hỗn hợp là một dạng cụ thể của sở hữu chung nhưng đồng thời lại có những nét đặc sắc riêng. Sở hữu chung hỗn hợp thường có qui mô hoạt động rộng khắp trong nhiều ngành nghề khác nhau và có mục đích thu lợi nên việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không theo các nguyên tắc sở hữu chung thông thường vì vậy tại điều 218 BLDS qui định : Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật này và các quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.
B. Một số kiến nghị về hình thức sở hữu trong bộ luật dân sự
Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, Bộ luật Dân sự hiện hành quy định sáu hình thức sở hữu, gồm: sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp; sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp. Sự phân chia này chưa hợp lý, vì các hình thức sở hữu khác nhau ở cách thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu chứ không phải ở chức năng, nhiệm vụ, tính chất của các loại hình tổ chức (pháp nhân).
Việc xác định các hình thức sở hữu dựa trên sự liệt kê các loại hình tổ chức cũng không thể đầy đủ. Bởi vì cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều loại hình thức tổ chức cũng sẽ xuất hiện và nếu Bộ luật Dân sự cứ phải chạy theo để sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế thì không bảo đảm được sự ổn định cần thiết của Bộ luật. Vì vậy nên dựa vào sự khác biệt trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản để xác định hình thức sở hữu cho phù hợp. Chẳng hạn, nếu tài sản thuộc về một chủ thể (cá nhân hoặc pháp nhân) và chủ thể này được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản mà trong quá trình thực hiện quyền không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác, của nhà nước, của cộng đồng…thì gọi là sở hữu riêng – thường gọi là sở hữu tư nhân. Hay, tài sản thuộc sở hữu từ hai chủ thể trở lên và mỗi chủ thể có quyền khai thác