Đề tài Vì sao có sự phân chia hệ thống cơ quan trung ương và hệ thông cơ quan địa phương

Trong các bản Hiến pháp (HP 1946, HP 1959, HP 1980, HP 1992) đã chỉ rõ sự phân chia hệ thống cơ quan hành chính trung ương và hệ thống cơ quan hành chính địa phương của Việt Nam. Tuy nhiên trước đổi mới, chúng ta đã thực hiện chế độ tập trung trong quản lý hành chính nhà nước. Không thể phủ nhận những kết quả quan trọng đã đạt được nhưng chúng ta cũng đã mang không ít hậu quả từ khiếm khuyết của mô hình tập trung ấy. Khi hệ thống cơ quan hành chính trung ương bao quát tất cả và can thiệp trực tiếp tới các hoạt động, công việc lớn nhỏ trên phạm vi cả nước đã khiến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính địa phương trở nên hết sức mờ nhạt. tình trạng ấy không chỉ diễn ra tại Việt Nam mà phổ biến trên khắp thế giới. theo TS.Võ Kim Sơn “xu hướng vận động và phát triển của xã hội đã chỉ ra hạn chế của mô hình tập trung trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và trung ương sự phân cấp trở thành xu thế chung hiện nay” (phân cấp quản lý nhà nước-lý luận và thực tiễn-tr48) Chúng ta đang bước vào CNH-HĐH đất nước , trước ảnh hưởng từ xu thế chung ấy của thế giới đòi hỏi Việt Nam phải tiến hành đổi mới về phương thức quản lý trong đó phân quyền từ cơ quan trung ương xuống địa phương là một yêu cầu quan trọng và vô cùng cần thiết. một thực tế nảy sinh trong quá trình phân cấp đó là lý do vì sao có sự phân chia hệ thống cơ quan hành chính trung ương và cơ quan hành chính địa phương? Trả lời được câu hỏi này không những xác định được nhiệm vụ , quyền hạn của hệ thống cơ quan hành chính trung ương và cơ quan hành chính địa phương mà còn góp phần cho việc phân cấp diễn ra một cách có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu cấp bách và cũng là vấn đề nan giải của Việt Nam chúng ta hiện nay. Muốn giải thích được lý do “vì sao có sự phân chia hệ thống cơ quan trung ương và hệ thông cơ quan địa phương ?” chúng ta phải làm rõ được các vấn đề sau: Thứ nhất, cơ sở và quá trình phân chia ấy như thế nào? Thứ hai, nếu không tiến hành phân chia sẽ như thế nào? cũng như đi tìm hạn chế và hiệu quả của việc phân chia ấy và cuối cùng là thực trạng cũng như giải pháp giành cho Việt Nam.

doc16 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5133 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vì sao có sự phân chia hệ thống cơ quan trung ương và hệ thông cơ quan địa phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU LỜI MỞ ĐẦU. NỘI DUNG CHÍNH. I. Cơ sở của quá trình phân chia hệ thống cơ quan hành chính Trung ương và cơ quan hành chính địa phương 1. Sự phân chia hệ thống cơ quan hành chính Trung ương và địa phương như thế nào? 2.Quan điểm về phân cấp ở Việt Nam II. Nguyên nhân của sự phân chia hệ thống cơ quan hành chính Trung ương và cơ quan hành chính địa phương. Nguyên nhân khách quan Nguyên nhan chủ quan Tác dụng của việc phân cấp quản lý IV.Thực tế phân chia hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và cơ quan hành chính nhà nước địa phương ở Việt Nam 1.Khái quát chung về tình hình phân cấp, phân quyền ở Việt Nam 2.Ưu điểm, hạn chế của việc phân chia ở Việt Nam 3.Giải pháp phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương ở nước ta giai đoạn hiện nay KẾT LUẬN. A.LỜI MỞ ĐẦU Trong các bản Hiến pháp (HP 1946, HP 1959, HP 1980, HP 1992) đã chỉ rõ sự phân chia hệ thống cơ quan hành chính trung ương và hệ thống cơ quan hành chính địa phương của Việt Nam. Tuy nhiên trước đổi mới, chúng ta đã thực hiện chế độ tập trung trong quản lý hành chính nhà nước. Không thể phủ nhận những kết quả quan trọng đã đạt được nhưng chúng ta cũng đã mang không ít hậu quả từ khiếm khuyết của mô hình tập trung ấy. Khi hệ thống cơ quan hành chính trung ương bao quát tất cả và can thiệp trực tiếp tới các hoạt động, công việc lớn nhỏ trên phạm vi cả nước đã khiến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính địa phương trở nên hết sức mờ nhạt. tình trạng ấy không chỉ diễn ra tại Việt Nam mà phổ biến trên khắp thế giới. theo TS.Võ Kim Sơn “xu hướng vận động và phát triển của xã hội đã chỉ ra hạn chế của mô hình tập trung trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và trung ương …sự phân cấp trở thành xu thế chung hiện nay” (phân cấp quản lý nhà nước-lý luận và thực tiễn-tr48) Chúng ta đang bước vào CNH-HĐH đất nước , trước ảnh hưởng từ xu thế chung ấy của thế giới đòi hỏi Việt Nam phải tiến hành đổi mới về phương thức quản lý trong đó phân quyền từ cơ quan trung ương xuống địa phương là một yêu cầu quan trọng và vô cùng cần thiết. một thực tế nảy sinh trong quá trình phân cấp đó là lý do vì sao có sự phân chia hệ thống cơ quan hành chính trung ương và cơ quan hành chính địa phương? Trả lời được câu hỏi này không những xác định được nhiệm vụ , quyền hạn của hệ thống cơ quan hành chính trung ương và cơ quan hành chính địa phương mà còn góp phần cho việc phân cấp diễn ra một cách có hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu cấp bách và cũng là vấn đề nan giải của Việt Nam chúng ta hiện nay. Muốn giải thích được lý do “vì sao có sự phân chia hệ thống cơ quan trung ương và hệ thông cơ quan địa phương ?” chúng ta phải làm rõ được các vấn đề sau: Thứ nhất, cơ sở và quá trình phân chia ấy như thế nào? Thứ hai, nếu không tiến hành phân chia sẽ như thế nào? cũng như đi tìm hạn chế và hiệu quả của việc phân chia ấy và cuối cùng là thực trạng cũng như giải pháp giành cho Việt Nam. B.NỘI DUNG CHÍNH I.Cơ sở và quá trình phân chia hệ thống cơ quan hành chính ở trung ương và cơ quan hành chính ở địa phương. 1.Sự phân chia hệ thống cơ quan trung ương và địa phương như thế nào? Trước hết, để hiểu được vấn đề trên, chúng ta cần hiểu được về khái niệm phân quyền. Phân quyền ( decentralization): đây là thuật ngữ được dùng phổ biến trên thế giới. Có hai hình thức phân quyền chính: phân quyền lãnh thổ (địa phương) và phân quyền công sở (chuyên môn hay chức năng). Theo đề tài, chúng ta chỉ xét phân quyền lãnh thổ. Phân quyền lãnh thổ là chính quyền Trung ương công nhận quyền tự quản trong những hành vi và mức độ khác nhau của các đơn vị hành chính địa phương và các cấp tại địa phương, nhân dân được bầu người thay mặt mình để đảm đương công việc hành chính ở địa phương được pháp luật quy định. Các đơn vị chính quyền địa phương trở thành các đơn vị tự quản có tư cách pháp nhân, có ngân sách riêng, được tự chủ quyết định các vấn đề thuộc quyền địa phương. Một tổ chức hành chính địa phương được hướng phân quyền phải có những yếu tố: có công việc địa phương, có quyền bầu cử các nhà chức trách địa phương, có tính cách tự quản địa phương, chịu sự kiểm soát của chính quyền Trung ương. Trên thế giới hiện nay tồn tại hai mô hình cơ bản đó là nhà nước liên bang và nhà nước đơn nhất. Sự phân quyền ở nhà nước liên bang, ví dụ như ở Đức: Hệ thống hiến pháp phân quyền theo nguyên tắc bang và liên bang, trong đó thủ tướng liên bang chịu trách nhiệm ban hành những chính sách chung; các bộ trưởng chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực và đưa ra chính sách không phụ thuộc vào định hướng chung đó. Các bang thì có bộ máy hành pháp cuả bang (pháp luật này cũng trong khuôn khổ Hiến pháp và luật của liên bang). Nhà nước đơn nhất khác với nhà nước liên bang là bang được sử dụng quyền hành như một quốc gia độc lập, ở nhà nước đơn nhất, địa phương là các cấp hành chính và chỉ được sử dụng quyền hành chính. F Những quan điểm về phân chia hệ thống cơ quan hành chính nhà nước Trung ương và địa phương : Baron Montesquyeu được coi là người đưa ra ý tưởng hoàn thiện và đầy đủ nhất về việc phân chia quyền lực Nhà nước, các nhóm quyền và phân chia việc thực thi quyền lực nhà nước cho các tổ chức khác nhau thực hiện. Theo ông đó chính là một cách thức để bảo đảm quyền lực không bị lạm dụng vì khi trao quyền (toàn bộ) cho một tổ chức Nhà nước hay một cá nhân đều có thể dẫn đến lạm dụng quyền. Thế kỉ XVI, triều đại Tudor đã gia tăng mức độ hợp tác giữa hoàng gia, quý tộc và thương gia trong khi vẫn duy trì một sự tin tưởng quyền bất khả xâm phạm của nhà Vua. Cuối thế kỉ XVI nữ hoàng Elizabeth I đã chia sẻ quyền lãnh đạo cho Thượng nghị viện và Hạ viện. John Locke đưa ra quan điểm về phân chia quyền lực cho các cơ quan Nhà nước khác nhau để thực thi các loại quyền lực đó, cụ thể hơn trong tác phẩm “Luận thuyết thư hai của chính phủ” (second treatise of Government). TS.Nguyễn Hoàng Anh: phân quyền chỉ tồn tại khi có một cộng đồng lãnh thổ địa phương được lập ra bởi nhân dân địa phương theo bầu cử phổ thông và cộng đồng này hoạt động độc lập , nhân danh và vì lợi ích của địa phương. Thông thường điều kiện Hiến pháp thừa nhận “các cộng đồng lãnh thổ địa phương…thực hiện tự quản hành chính thông qua các hội đồng dân cử và theo những điều kiện xác định bởi các đạo luật” (d72-1958 Cộng hòa Pháp) → Các dấu hiệu của phân quyền từ lâu đã xuất hiện trên thế giới. Và hiện nay dù bất kỳ ở quốc gia nào, với mô hình tổ chức nhà nước như thế nào thì quyền hành pháp đều được phân chia. 2.Quan điểm về phân cấp ở Việt Nam Quan điểm của nước ta về “phân cấp” ( VN không dùng khái niệm phân quyền trong tất cả các văn kiện của Đảng, pháp luật nhà nước đều dùng phân cấp). Quan điểm về phân cấp ở nước ta được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Hội nghị TW 8 khóa VI khẳng định “Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp tập trung quản lý vĩ mô…”, “xác định rành mạch, cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của từng bộ và chính quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng ngành, lĩnh vực…”. Hôị nghị TW 3 khóa VIII khẳng định “Chính phủ và bộ máy hành chính Nhà nước thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế,…theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới”, “phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ”. Quan điểm về phân cấp lại tiếp tục được khẳng định trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần IX và chương trình cải cách 2001-2010. Mục tiêu phân cấp -Phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy nhà nước. -Bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất và thông suốt của Chính phủ. -Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước, phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân. -Thúc đẩy kinh tế-xã hội ở địa phương trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. II. Nguyên nhân của sự phân chia 1.Nguyên nhân khách quan Nhà nước pháp quyền được đặc trưng bởi tính dân chủ trong phương thức tổ chức quyền lực nhà nước. Phân cấp với mục đích tạo quyền tự chủ, sáng tạo, phát huy tính năng động của địa phương, để khai thác thế mạnh và tiềm năng của chính quyền cơ sở là một biểu hiện rõ nét của dân chủ; Việc phân chia cơ quan Nhà nước Trung ương và địa phương là dựa vào tính kế thừa của lịch sử. Lịch sử hình thành và phát triển đất nước đã tồn tại sự phân chia hệ thống cơ quan giữa Trung ương Và địa phương; Do diện tích lãnh thổ rộng lớn, chính quyền địa phương hình thành để giúp cơ quan hành chính Trung ương quản lý ở các đơn vị hành chính lãnh thổ. Một mặt đảm bảo chủ quyền quốc gia, mặt khác giảm tải gánh nặng để hoạt động quản lý ở Trung ương; Do phân cấp là xu hướng chung của các nước trên Thế giới, tăng cường tính tự quản của địa phương trong việc quyết định những vấn đề của địa bàn lãnh thổ, là nền tảng cho sự phát triển ổn định. 2.Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, Ở Trung ương tập trung khối lượng công việc khổng lồ,việc thành lập chính quyền ở địa phương sẽ giúp giảm bớt gánh nặng của Trung ương. Tạo điều kiện để cơ quan ở Trung ương tập trung quản lý ở tầm vỹ mô, đem lại hiệu quả cao trong công việc Thứ hai, cơ quan hành chính ở địa phương sát với người dân hơn, do đó, các chính sách, quyết sách của Trung ương giao xuống sẽ được cơ quan hành chính ở địa phương làm việc, áp dụng tốt hơn vào địa phương. Và ngược lại, khi đã sát với nhân dân thì chính quyền địa phương sẽ nắm bắt tình hình ở địa phương một cách đầy đủ, từ đó đưa ra các chính sách phù hợp với địa phương mình và cũng kiến nghị lên các cơ quan cấp trên, đóng góp ý kiến để xây dựng, ban hành các chính sách đạt hiệu quả cao nhất. Thứ ba, việc phân chia cơ quan Nhà nước Trung ương và địa phương còn nhằm hạn chế sự lạm quyền của chính quyền Trung ương trong các hoạt động. Thứ tư, do yêu cầu tính hệ thống, thứ bậc chặt chẽ trong hoạt động hành chính Nhà nước: Thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ ở từng cấp quản lý: cơ quan Trung ương quản lý trên phạm vi cả nước,mang tính vĩ mô đối với tất cả các mặt; chính quyền địa phương đưa các dịch vụ công , chính sách nhằm phục vụ nhân dân. Cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương có thể tập trung vào việc ban hành các chính sách mang tính chiến lược, quy mô và bao quát. Có sự phân chia quyền lực, tránh tình trạng tập quyền, lạm quyền, không sát dân, ban hành chính sách mang tính áp đặt. ► Nếu không phân chia hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước: Các chính sách cơ quan Trung ương ban hành sẽ xa rời thực tế, thiếu tính khả thi, thiếu sự ủng hộ của người dân Bộ máy hành chính Trung ương trở nên cồng kềnh, bận rộn, nhiều tầng nấc. Công việc tồn đọng, quyền lợi của địa phương và trung ương không được đảm bảo Thiếu tinh thần dân chủ, thiếu tinh thần tự quản và sáng tạo, nhân dân bị hạn chế tham gia vào quản lý đất nước 3 .Tác dụng việc phân cấp quản lý Việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương một mặt nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp trong bộ máy chính quyền Nhà nước. Mặt khác, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất và thông suốt của chính quyền trung ương, tăng cường kỷ luật, kỷ cương để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở từng địa phương phát triển, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi địa phương trong một nhà nước thống nhất. Do vậy, việc phân cấp hợp lý, chính xác sẽ có những tác dụng tích cực như: Thúc đẩy sự phát triển dân chủ thông qua việc cung cấp những cơ hội tốt hơn để người dân tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước các cấp. Tăng cường hiệu quả và nâng cao chất lượng của những dịch vụ công cung cấp cho người dân. Tăng cường sự phát triển về kinh tế, xã hội dựa trên sự am hiểu chính xác điều kiện kinh tế - xã hội và các đặc điểm về địa lý, dân cư… của chính quyền địa phương, trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch và có những chính sách đúng đắn cho việc phát triển đó, phát huy được thế mạnh của mỗi địa phương. Tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực giải quyết các công việc của các cơ quan chính quyền địa phương. Tăng cường sự ổn định chính trị và sự thống nhất của quốc gia thông qua việc cho phép người dân quyền giám sát một cách trực tiếp và hiệu quả hơn các chương trình, kế hoạch và hoạt động của chính quyền nhà nước ở địa phương thuộc các cấp khác nhau. Tạo điều kiện cho những ý tưởng kinh tế, chính trị, xã hội… mới nảy sinh, từ đó có được những chương trình, hoạt động quản lý Nhà nước có tính sáng tạo hơn đối với mỗi địa phương. IV.Thực tế phân chia hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và cơ quan hành chính nhà nước địa phương ở Việt Nam 1.Khái quát chung về tình hình phân chia hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và cơ quan hành chính nhà nước địa phương ở Việt Nam Vấn đề phân chia hệ thống cơ quan hành chính Trung ương và địa phương ở Việt Nam đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bên cạnh hệ thống cơ quan hành chính Trung ương đã đề cập đến hệ thống cơ quan hành chính địa phương. Điều này được thể hiện ngay trong những văn bản đầu tiên của chính quyền lâm thời Việt Nam (Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 76 ngày 21/12/1945 quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính nhà nước ở các địa phương). Tiếp đến là hệ thống chính quyền Trung ương và địa phương được quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 có 14 điều quy định về Chính phủ và 06 điều quy định về chính quyền địa phương. Hiến pháp năm 1959 có 07 điều quy định về Hội đồng bộ trưởng và 14 điều quy định về chính quyền địa phương. Hiến pháp năm 1980 có 09 điều quy định về Hội đồng Bộ trưởng và giữ nguyên 14 điềuquy định về chính quyền địa phương, đổi Ủy ban hành chính thành Ủy ban nhân dân. Trong Hiến pháp hiện hành, phân chia rất rõ hệ thống cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương. Ở Trung ương, Hiến pháp dành 09 điều quy định về Chính phủ. Theo đó cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm bộ và cơ quan ngang bộ. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác (hiện nay chúng ta có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ). Ở địa phương, Hiến pháp 1992 dành 08 điều quy định về chính quyền dịa phương. Theo đó, hệ thống cơ quan hành chính được chia thành 3 cấp tỉnh, huyện và xã. Mỗi cấp đều có UBND, cùng các sở, phòng,ban là những cơ quan quản lý về ngành lĩnh vực giúp việc cho UBND. Sơ đồ phân cấp hành chính Việt Nam theo Hiến pháp 1992. Việc phân cấp, phân quyền từ Trung ương xuống địa phương cũng được ghi rõ tại Điều 6 Hiến pháp hiện hành xác định tất cả các cơ quan nhà nước, trong đó có HĐND và UBND các cấp đều “tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trên tinh thần tổ chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc tự quản địa phương. Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 30/6/2004 của Chính phủ về tiếp tục phân cấp quản lý giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong đó đã định hướng ưu tiên phân cấp đối với các lĩnh vực như: Quản lý quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển; quản lý ngân sách nhà nước; quản lý đất đai, tài nguyên và tài sản nhà nước; quản lý doanh nghiệp nhà nước; quản lý các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công; quản lý về tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức… Phân cấp là một biện pháp quan trọng để giải quyết mối quan hệ giữa Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ với Ủy ban nhân dân các cấp trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước.Đẩy mạnh phân cấp giữa Trung ương – địa phương trở thành quan điểm, tư tưởng chủ đạo trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và trong việc hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan Nhà nước Trung ương với địa phương được thể hiện trong Luật tổ chức HĐND và UBNN năm 2003, và các luật chuyên ngành( ngân sách, đất đai, giáo dục...) Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phân cấp quản lý Nhà nước giữa Chính phủ, chính quyền cấp tỉnh và các cấp chính quyền địa phương. Sự phân cấp bước đầu đã phân biệt hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước với hoạt động của đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Thông qua một loạt thể chế về tổ chức, nhân sự, tài chính công, trong thời gian qua chúng ta đã tạo lập được cơ chế để tiếp tục quá trình tách rõ hành chính với doanh nghiệp, hành chính với sự nghiệp theo quan điểm của Nghị quyết Đại hội Đảng IX. Trong vòng 4 năm qua các đầu mối thuộc Chính phủ đã giảm xuống đáng kể, từ 48 đầu mối nay còn 39 đầu mối (26 Bộ và cơ quan ngang Bộ, 13 cơ quan thuộc Chính phủ) . Nghị định số 171/2004/NĐ-CP, số 172/2004/NĐ-CP của Chính phủ đã khẳng định mô hình tổ chức cứng được tổ chức nhất quán theo qui định của Trung ương, đồng thời trao quyền cho địa phương tự quyết định các vấn đề địa phương một cách phù hợp. Việc phân chia hệ thống cơ quan hành chính Trung ương và địa phương từng bước đã đi vào thực tiễn khi vai trò ở địa phương ngày càng được nâng cao. 2.Ưu điểm và hạn chế của việc phân cấp ở Việt Nam 2.1 Ưu điểm Chính quyền địa phương đã có được sự chủ động , minh bạch, trách nhiệm giải trình và năng lực giải quyết các công việc. Hiệu quả của việc cung cấp dịch vụ công cho nhân dân được nâng cao thông qua việc ủy quyền cho chính quyền địa phương thực thi chức năng cung cấp dịch vụ công, phần nào hạn chế sự quan liêu và trì trệ của cơ quan Nhà nước cấp trên, cơ quan TƯ. Phân cấp tạo điều kiện thúc đẩy, mở rộng dân chủ, người dân đã tham gia tích cực và trực tiếp hơn vào các quá trình ra quyết định của các cơ quan Nhà nước các cấp. Việc phân cấp cho các chính quyền địa phương cũng đã giúp cho chính quyền địa phương đề ra các kế hoạch, chính sách đúng đắn, phát huy thế mạnh của địa phương mình. Việc phân cấp là nguyên nhân chính giúp cho Nhà nước ta có nền chính trị ổn định như hiện nay. 2.2 Hạn chế Những năm trước đây, do ảnh hưởng của cơ chế tập trung cao độ dẫn đến quyền lực Nhà nước tập trung vào các cơ quan Trung ương quá nhiều nên nhiều cấp, nhiều bộ phận có biểu hiện quan liêu, không sát thực tế, thực hiện các công việc kém hiệu quả. Quá trình thực hiện phân cấp còn chậm và thiếu kiên quyết, nhiều bộ, ngành còn do dự, chưa thực sự mạnh dạn phân cấp, không muốn phân cấp cho địa phương vì sợ mất quyền lực và lợi ích. Hệ thống chính sách, pháp luật và quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia và mô hình tổ chức chính quyền địa phương thiếu đồng bộ và chưa rõ ràng. Mối quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ cũng chưa được quy định rõ ràng, cụ thể. Thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương chưa được phân định rõ, quyền lực không đủ mạnh , các điều kiện về tổ chức cán bộ, tài chính, ngân sách, cơ sở vật chất để thực hiện các nhiệm vụ, quền hạn được phân cấp của chính quyền địa phương chưa đảm bảo. Do trật tự hình thành của chính quyền địa phương với nhiều cơ chế phức tạp, tế nhị nên dẫn đến tình trạng trong bộ máy nhà nước có biểu hiện “trên bảo dưới không nghe”... Các cơ quan chính quyền địa phương, nhất là hội đồng nhân dân một số cấp hoạt động mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Nhiều cơ quan chính quyền địa phương thiếu năng động , thiếu chủ động, thiếu sáng tạo trong công việc. Nhiều công việc cơ quan chính quyền địa phương có khả năng giải quyết nhưng không có quyền giải quyết, các cơ quan cấp trên không có khả năng giải quyết hiệu quả nhưng lại có quyền giải quyết dẫn đến công việc ùn tắc, chậm trễ, kém hiệu quả. Việc kiểm soát của chính quyền Trung ương đối với hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương trong quá trình phân cấp không tốt dẫn đến nhiều địa phương lợi dụng việc phân cấp để đưa ra các chính sách vì lợi ích cục bộ. VD: Việc kiểm soát của chính quyên Trung ương đối với hoạt động của chính quyền địa phương trong quá trình phân cấp không tốt dẫn đến nhiều địa phương đưa ra các quyết sách vì lợi ích cục