Hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Sự tham gia vào xu hướng chung đó gần như là lực chọn bắt buộc đối với mỗi quốc gia nếu như muốn tồn tại và phát triển kinh tế theo kịp trình độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của từng quốc gia, khu vực mà mỗi nước tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế ở các mức độ khác nhau, khu vực mậu dịch tự do cho tới liên minh tiền tệ, đỉnh cao của liên kết kinh tế quốc tế.
Liên minh Châu Âu ra đời là kết quả của hoạt động liên kết kinh tế quốc tế, là kết quả của quá trình hợp tác và đấu tranh giữa tranh chấp và thỏa hiệp của các nước thành viên nhằm đi đến thống nhất và tạo ra sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết. Năm 1999, đồng Euro chính thức ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu nói riêng và của hoạt động kinh tế quốc tế nói chung. Đồng Euro có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống kinh tế, xã hội của các nước thành viên và các nước có liên quan trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu về vị thế đồng Euro và ảnh hưởng của nó đối với các nước là hết sức cần thiết và đang trở thành đề tài đáng quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế hiện nay.
37 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3455 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vị thế của đồng Euro qua các giai đoạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
PHẦN I- TỔNG QUAN VỀ LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH ĐỒNG EURO. 3
1. Khái quát về Lịch sử của Liên minh châu Âu EU 3
2. Liên minh tiền tệ châu Âu 4
3. Quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu – Đồng Euro 5
PHẦN II - VỊ THẾ ĐỒNG EURO 8
1. Vai trò của đồng Euro 8
1.1. Đối với các quốc gia thành viên 8
1.2. Đối với nền kinh tế thế giới 10
2. Diễn biến và vị thế đồng Euro từ khi ra đời (1/1/1999) đến nay 14
3.Những kịch bản cho tương lai của đồng Euro 16
PHẦN III - ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỘNG ĐỒNG EURO TỚI VIỆT NAM VÀ N HỮNG BIỆN PHÁP TRONG NHẰM TRÁNH NHỮNG TÁC ĐỘNG XẤU TỚI KINH TẾ VIỆT NAM 18
Nhận xét chung 18
Tỷ giá EUR/USD ở Việt Nam 19
2. Một số giải pháp nhằm xử lý tác động của đồng EURO đối với Việt Nam. 22
2.1. Về lĩnh vực xuất nhập khẩu. 22
2.2. Về lĩnh vực đầu tư. 22
2.3. Về lĩnh vực vay nợ nước ngoài: 23
2.4. Về dự trữ ngoại tệ: 23
2.5. Về tỷ giá hối đoái. 23
2.6. Về chính sách lãi suất. 24
BÀI THAM KHẢO 25
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Sự tham gia vào xu hướng chung đó gần như là lực chọn bắt buộc đối với mỗi quốc gia nếu như muốn tồn tại và phát triển kinh tế theo kịp trình độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của từng quốc gia, khu vực mà mỗi nước tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế ở các mức độ khác nhau, khu vực mậu dịch tự do… cho tới liên minh tiền tệ, đỉnh cao của liên kết kinh tế quốc tế.
Liên minh Châu Âu ra đời là kết quả của hoạt động liên kết kinh tế quốc tế, là kết quả của quá trình hợp tác và đấu tranh giữa tranh chấp và thỏa hiệp của các nước thành viên nhằm đi đến thống nhất và tạo ra sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết. Năm 1999, đồng Euro chính thức ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu nói riêng và của hoạt động kinh tế quốc tế nói chung. Đồng Euro có ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống kinh tế, xã hội của các nước thành viên và các nước có liên quan trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu về vị thế đồng Euro và ảnh hưởng của nó đối với các nước là hết sức cần thiết và đang trở thành đề tài đáng quan tâm của các nhà nghiên cứu kinh tế hiện nay.
Được sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Thị Thu Thảo, nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Vị thế của đồng Euro qua các giai đoạn” làm đề tài thảo luận nhóm. Rất mong cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
PHẦN I- TỔNG QUAN VỀ LIÊN MINH TIỀN TỆ CHÂU ÂU VÀ TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH ĐỒNG EURO.
Khái quát về Lịch sử của Liên minh châu Âu EU
Liên minh Châu Âu có quá trình phát triển lâu dài, ra đời từ sớm so với các khu vực liên kết kinh tế quốc tế khác. Ngay sau đại chiến Thế giới thứ II, các nước châu Âu đã nhận thấy hoạt động liên kết kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết.
Trong hai cuộc đại chiến nửa đầu thế kỷ XX, Tây Âu và Nhật Bản bị hủy nặng nề về kinh tế, trong khi đó Mỹ đã giàu lên trong chiến tranh từ việc bán vũ khí cho các nước tham chiến. Vì vậy, sau chiến tranh Thế giới Mỹ đã trở thành cường quốc số 1 về kinh tế và nhanh chóng tận dụng thế mạnh đó để củng cố vị thế của mình. Trong bối cảnh đó, các nước châu Âu đều muốn khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng nền hòa bình tự chủ vững chắc. Do đó, các nước châu Âu cần tách khỏi sự lệ thuộc vào nước Mỹ, liên kết với nhau xây dựng liên minh châu Âu, khởi đầu là Cộng đồng than thép châu Âu (CECA).
Ngày 18/04/1951, bằng hiệp định Pari, Cộng đồng than thép châu Âu chính thức ra đời. CECA gồm 6 nước tham gia là: Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Ý và Lucxembua. Sau một thời gian ngắn, CECA đã đạt được những kết quả đáng mong đợi và đem lạilợi ích kinh tế chính trị to lớn khiến các nước thành viên tiếp tục phát triển con đường đã chọn bằng việc xây dựng cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC).
Ngày 25/03/1957, ký kết hiệp định Rome, thành lập cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) và cộng đồng nguyên tử châu Âu (CEEA). Tất cả các thành viên của CECA đều tham gia vào EEC và CEEA.
Sau 10 năm hoạt động EEC đã đạt được kết quả đáng kể, tạo điều kiện cho các nước thành viên có thể hợp tác, liên kết ở mức độ cao. Đồng thời EEC đã tỏ ra tương xứng với thực lực của cộng đồng. Do vậy đã đi đến hợp nhất cộng đồng thành Cộng đồng châu Âu (EC).
Ngày 01/07/1967 EC chính thức ra đời dựa trên sự hợp nhất của Cộng đồng than thép châu Âu, cộng đồng nguyên tử châu Âu và cộng đồng kinh tế châu Âu. Tât cả các thành viên của EEC đều tham gia vào EC. Mục đích chính của việc thành lập EC là tạo ra sự hợp tác, liên kết ở mức độ cao hơn, mở rộng phạm vi liên kết, không chỉ là liên kết kinh tế.
Qua các lần mở rộng, số thành viên tham gia nhiều hơn, Cộng đồng châu Âu lớn mạnh dần về quy mô. Tuy nhiên càng mở rộng nhiều thành viên hơn, sự phối hợp sẽ phức tạp hơn và nhiều vấn đề về lợi ích sẽ khó dung hòa hơn. Điều đó đã thôi thúc châu Âu đi tới hội nghị Maastrich ký ngày 07/02/1992 Cộng đồng châu Âu đổi tên thành Liên Minh Châu Âu và chính thức hoạt động ngày 1/1/1993. EU gồm 15 thành viên, mục đích chính của EU là tạo ra sự thống nhất cao, tạo điều kiện phát triển kinh tế các nước thành viên, củng cố sức mạnh toàn khối tiến tới thành lập khu vực tiền tệ để EU có đủ sức mạnh cạnh tranh và hợp tác có hiệu quả với các nước, các khối liên minh khác. Liên minh châu Âu đã có thị trường chung về hàng hóa và dịch vụ, đã có cự hợp tác liên kết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Song để thị trường chung thực sự trơe nên thống nhất thì các rào cản tiền tệ phải được loại bỏ hoàn toàn. Điều này chỉ có được khi chỉ có một đồng tiền chung được lưu hành và được điều hành thống nhất bằng một chính sách tiền tệ chung. Chính vì vậy mà liên minh tiền tệ châu Âu được thành lập mà nội dung chính của nó là cho ra đời và vận hành đồng tiền chung trong toàn khối.
Liên minh tiền tệ châu Âu
Liên minh tiền tệ châu Âu là tiến tới hòa nhập các chính sách kinh tế, tiền tệ của các nước thành viên EU. Nó là kết quả trực tiếp của hiệp ước Maastricht ký ngày 07/02/1992, giai đoạn mới của tiến trình liên kết châu Âu.
Thực chất tiến trình xây dựng EMU được đề cập từ rất sớm. Nhưng trên thực tế, chỉ đến sau năm 1971 các nước châu Âu mới thực sự quan tâm vì trước đó tiền tệ của các nước này vẫn được cố định với đồng USD với hệ thống Bretton Woods. Cuối những năm 1970, trước sự suy thoái về kinh tế kéo dài đặc biệt là trước sự sút kém của một Cộng đồng châu Âu phân tán về thị trường tiền tệ. Ngày 13/03/1978 hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) đã ra đời với mục đích duy trì tỷ giá cố định trong toàn khối và tỷ giá của cả khối sẽ thay đổi theo thị trường. Đó thực chất là một hệ thống thả nổi có điều tiết. Cùng với sự ra đời của EMS là sự ra đời của đơn vị tiền tệ châu Âu: đồng ECU. Đồng ECU có chứ năng nhất định như tính toán, thanh toán, dự trữ, song rất hạn chế trong phạm vi nhất định.
Hệ thống tiền tệ châu Âu bộc lộ những hạn chế trong lúc cục diện thế giới 2 cực đã chấm dứt, các thế lực dồn sức chuẩn bị lực lượng để dành địa vị tối ưu trong tương lai. Trong bối cảnh đó, cộng đồng châu Âu tuy đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình liên kết song vẫn thua xa Mỹ, Nhật. Do đó, trước hết các nước châu Âu phải thống nhất chặt chẽ để tạo ra sức mạnh tổng hợp, đáp ứng những cơ hội và thách thức mới. Trước tình hình đó, Hiệp ước Maastricht ra đời đã chính thức hóa dự án về đồng tiền chung. Quá trình xây dựng liên minh kinh tế và tiền tệ gồm 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Từ 01/07/1990 đến 31/12/1993 với nhiệm vụ phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế giữa các nước, hoàn chỉnh quá trình lưu thông và tự do vốn, phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước, đặt nền kinh tế quốc gia dưới sự giám sát nhiều bên.
Giai đoạn 2: Từ 01/01/1994 đến 01/01/1999 với nhiệm vụ tiếp tục phối hợp chính sách kinh tế, tiền tệ nhưng ở mức cao hơn, để chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của đồng Euro.
Giai đoạn 3: Từ 01/01/1999 đến 30/06/2002 với nội dung cho ra đời đồng Euro, công bố tỷ giá chính thức giữa đồng Euro và các đồng tiền quốc gia.
Quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu – Đồng Euro
Euro là tiền tệ thống nhất trong châu Âu có nguồn gốc từ thời kỳ đầu tiên của Liên minh châu Âu và trong lịch sử kinh tế toàn cầu. Năm 1968, việc hòa nhập kinh tế thông qua liên minh thuế quan đã có những bước tiến dài, mặt khác sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dẫn đến việc tỷ giá hối đoái dao động mạnh cản trở thương mại.
Năm 1970, ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa lần đầu tiên. Tuy nhiên, năm 1980 mục đích thành lập Liên Minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền tệ thống nhất đã thất bại mà một trong những nguyên nhân là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Thay vào đó Liên Minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972.
Đến năm 1979, hình thành hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) với nhiệm vụ:
+ Phối hợp thanh toán và chuyển nhượng giữa các đồng tiền trong cộng đồng
+ Hướng tới thành lập NHTW cho cả châu Âu
+ Phát hành EUC trái phiếu vào năm 1986-1987
Năm 1988, một Ủy ban xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ủy ban châu Âu đã soạn thảo đưa ra phương án thành lập Liên Minh kinh tế và tiền tệ châu Âu hướng tới hình thành đồng tiền chung theo 3 bước:
Bước 1: Ngày 01/07/1990, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong Liên Minh Châu Âu.
Bước 2: Ngày 01/01/1994 Viện Tiền tệ Châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) được thành lập và tình trạng ngân sách quốc gia của các nước thành viên bắt đầu được xem xét. Ngoài ra, ngày 16/12/1995 Hội đồng châu Âu quyết định tên gọi của tiền chung là “Euro”. Ngày 13/12/1996, các Bộ trưởng Bộ Tài chính của EU đi đến thỏa thuận về Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm đảm bảo các nước thành viên giữ kỷ luật về ngân sách, qua đó đảm bảo giá trị của tiền tệ chung.
Bước 3: Tháng 05/1998 tiến hành lựa chọn những quốc gia hội đủ các điều kiện Maastricht để trở thành thành viên EMU và đồng thời công bố tỷ giá song phương giữa các đồng tiền thành viên. Bước chuyển đổi này được mô tả thông qua 3 thời kỳ:
Thời kỳ 1: Được bắt đầu từ tháng 5 năm 1998, Hội đồng châu Âu xác định những nước hội tụ đủ các tiêu trí hội nhập trong năm 1997 và khả năng hội nhập của từng nước trong năm 1998. Sau khi các nước đã được lựa chọn trỏa thành thành viên EMU thì Ngân hàng Trung Ương châu Âu cũng đuọc thành lập trên cơ sở Viện Tiền tệ châu Âu với nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm quá trình chuyển tiếp xảy ra một cách trơn chu và hình thành chính sách tiền tệ chung của đồng Euro.
Thời kỳ 2: Bắt đầu từ 01/01/1999 bằng việc cố định tỷ giá của các đồng tiền thành viên với Euro. Đồng Euro trỏa thành đồng tiền hợp pháp và thay thế đồng ECU tại mức tỷ giá chính thức. Trong thời kỳ này, đồng Euro chưa xuất hiện ngay dưới hình thức giấy bạc và tiền xu, nhưng bảo đảm rằng hầu hết các số dư trên tài khoản ngân hàng và nợ quốc gia mới phát sinh phải được ghi bằng đồng Euro. Cũng tại thời điểm này, Viện Tiền tệ châu Âu giải thể và Hệ thống Ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm ECB và các Ngân hàng trung ương quốc gia bắt đầu hoạt động với đồng Euro. Song song với các đồng tiền quốc gia, Euro được sử dụng rộng rãi trong các giao dịch ngân hàng dựa theo nguyên tắc chỉ đạo là “không cấm, không bắt buộc”.
Thời kỳ 3: Được bắt đầu từ 01/01/2002, song song với những tờ giấy bạc và tiền xu quốc gia là sự xuất hiện của các tờ giấy bạc và tiền xu bằng Euro trong thời gian tối đa là 6 tháng. Cả 2 loại tiền quốc gia và Euro đều là đồng tiền hợp pháp và mọi người đều có quyền chuyển đổi tự do đồng tiền quốc gia sang Euro tại các Ngân hàng Thương mại hay tại Ngân hàng Trung ương quốc gia. Tại thời điểm cuối tháng 6/200, những đồng tiền quốc gia hết hiệu lực là đồng tiền hợp pháp nhưung chúng vẫn tiếp tục được chuyển đổi thành Euro tại các NHTM, và đồng Euro trở thành đồng tiền hợp pháp duy nhất tại các quốc gia thành viên EMU.
PHẦN II - VỊ THẾ ĐỒNG EURO
Vai trò của đồng Euro
Đối với các quốc gia thành viên
Đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi cho các nước EU khoảng 200 tỷ ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản của Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các đồng tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm cho các nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) và duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh không chỉ có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước tham gia EMU;
Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu Âu đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước tham gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo các chỉ tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính phủ đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
Đối với nền kinh tế thế giới
Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng EURO chi phối. Vào thời điểm hình thành năm 1999, với một nền kinh tế phát triển của 11 nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và 18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh.
Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng khoán.
Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương, trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu) dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch và buôn bán quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đồng EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các nước cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới.
Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau... Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán