Vào ngày 28.7.1995, tại Brunei, Việt Nam chính thức được kết nạp làm thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN). Sự kiện này đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong 14 năm qua, với những kết quả, thành tựu mà Việt Nam đạt được đã khẳng định Việt Nam ngày càng có vị thế vững vàng hơn trong tiến trình hội nhập ASEAN, nhưng để tiếp tục phát triển Việt Nam cần phải nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và ngày càng thu hẹp khoảng cách với các thành viên khác trong ASEAN.
24 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vị thế của Việt Nam trong ASEAN - Thời cơ và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MÔN: CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI:
Giảng viên hướng dẫn :
Nhóm thực hiện :
Lớp :
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 11/2009
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ CÔNG THƯƠNG
TIỂU LUẬN MÔN: CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI:
Giảng viên hướng dẫn :
Nhóm thực hiện :
Lớp :
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 11/2009
DANH SÁCH NHÓM
MÔN HỌC : CHÍNH TRỊ
DANH SÁCH NHÓM : 06
LỚP :
TÊN ĐỀ TÀI : VỊ THẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ASEAN.
THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
STT
MSSV
HỌ VÀ TÊN SV
CÔNG VIỆC
1
2
3
4
5
6
7
8
Mục đích nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Ý nghĩa
Bố cục
Tổng quan về ASEAN
Vị thế của Việt Nam
Thời cơ và thách thức
Kết luận
LỜI CẢM ƠN
Tiểu luận có thể được coi là một công trình khoa học nho nhỏ. Do vậy để hoàn tất một đề tài tiểu luận là một công việc không phải dễ đối với sinh viên sinh viên năm thứ I chúng em. Chúng em phải tổ chức học nhóm và tìm tài liệu trên nhiều phương tiện như giáo trình, sách báo, tài liệu ở thư viện, internet… để nghiên cứu.
Vì vậy, sau khi hoàn tất tiểu luận môn Chính trị này, chúng em xin chân thành:
Cảm ơn Nhà trường đã tạo điều kiện tốt cho chúng em nghiên cứu và học tập.
Cảm ơn Khoa Lý luận chính trị - Bộ môn Chính trị đã hướng dẫn chúng em cách thức tìm hiểu và nghiên cứu tiểu luận này.
Cảm ơn Bộ phận thư viện đã tạo điều kiện cho chúng em mượn sách và các tài liệu cũng như cho mượn phòng học nhóm để nhóm chúng em có thể học tập và làm việc một cách có hiệu quả.
Chúng em rất chân thành cám ơn và mong được thầy cô đóng góp ý kiến cho bài tiểu luận của chúng em.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT:
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Vào ngày 28.7.1995, tại Brunei, Việt Nam chính thức được kết nạp làm thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN). Sự kiện này đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong 14 năm qua, với những kết quả, thành tựu mà Việt Nam đạt được đã khẳng định Việt Nam ngày càng có vị thế vững vàng hơn trong tiến trình hội nhập ASEAN, nhưng để tiếp tục phát triển Việt Nam cần phải nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và ngày càng thu hẹp khoảng cách với các thành viên khác trong ASEAN.
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế khách quan của sự phát triển kinh tế thế giới. Sự gia tăng mạnh mẽ của xu thế hội nhập kinh tế đã đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh này nước ta không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường. Nên việc đẩy mạnh tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là một hướng đi đúng đắn. Tuy nhiên, hội nhập ngoài việc sẽ được đón nhận những thời cơ nhưng cũng sẽ phải đối mặt với các thách thức.
Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ là bước tiến đầu tiên để nước ta thực hiện mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng mối quan hệ, xóa đi phần nào những hàng rào thuế quan, tạo điều kiện cho việc liên doanh giữa các nước nhằm để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam còn là môi trường rất tốt để các nước trong khu vực học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt. Không những thế, gia nhập ASEAN còn giúp Việt Nam dần dần gia nhập các tổ chức quốc tế khác như WTO, APEC... Những điều trên đã làm cho vị thế của Việt nam trong khu vực và trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao hơn.
Qua tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã học, chúng em xin phép được trình bày tóm tắt về đề tài: “Vị thế của Việt Nam trong ASEAN. Cơ hội và thách thức”.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp luận
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp thống kê, lịch sử…
Ý NGHĨA
Việc nghiên cứu đề tài “Vị thế của Việt Nam trong ASEAN. Thời cơ và thách thức” giúp chúng em nắm bắt được tình hình của đất nước, vị trí của Việt Nam đang ở đâu trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới? Chúng ta phải đối mặt với những thách thức nào, tiếp cận được những thời cơ ra sao? Qua đó chúng em sẽ hiểu được nhiều hơn chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự hội nhập này.
BỐ CỤC
Tiểu luận được chia làm 3 phần:
Phần I: Phần mở đầu
Mục đích
Phương pháp
Ý nghĩa
Phần II: Nội dung
Tổng quan về ASEAN
Vị thế của Việt Nam trong ASEAN
Thời cơ và thách thức
Phần III: Kết luận
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
TỔNG QUAN VỀ ASEAN
Lịch sử hình thành và phát triển
Sau khi đã giành được độc lập, các nước Đông Nam Á đã gặp phải một tình trạng chung đó là nền kinh tế bị suy sụp, xã hội không phát triển. Đứng trước tình trạng đó, các nước Đông Nam Á đã có chủ chương thành lập một liên minh khu vực để cùng nhau hợp tác phát triển thúc đẩy nền kinh tế đất nước, được gọi là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asia Nations, viết tắt là ASEAN).
ASEAN được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 sau khi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan ký bản tuyên bố ASEAN còn gọi là Tuyên bố Bangkok, với các thành viên đầu tiên là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore, và Philippines. Sau đó là Brunei, Việt Nam, Lào, Myanma và Campuchia. Đến nay ASEAN đã có 10 nước thành viên. Đảo quốc Đông Timor là quốc gia cuối cùng ở Đông Nam Á chưa gia nhập ASEAN.
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ CÁC NƯỚC ASEAN.
Nước
Ngày gia nhập ASEAN
Thủ đô
Dân số (triệu người)
Diện tích (km2)
Indonesia
08/08/1967
Jakarta
219,25
1.890.754
Malaysia
08/08/1967
Kuala Lumpur
26,127.7
330.257
Philippines
08/08/1967
Manila
85,2369
300.000
Singapore
08/08/1967
Singapore
4,198
697
Thái Lan
08/08/1967
Bankok
64,763
513.254
Brunei Darussalam
08/01/1984
Bandar Seri Begawan
0.37
5765
Việt Nam
28/07/1995
Hà Nội
83,119.9
330.363
Lào
07/1997
Viên Chăn
5,9388
236.800
Myanma
07/1997
Nay Pyi Taw
56,0026
676.577
Campuchia
10/04/1999
Phnom Penh
13,6614
181.035
Mục tiêu hoạt động của ASEAN
Giữ vững hòa bình, an ninh, ổn định khu vực, xây dựng một cộng đồng hòa hợp, hợp tác để cùng nhau phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc về quan hệ song phương và đa phương:
Tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào nội bộ của nhau.
Nguyên tắc điều phối hoạt động: có 3 nguyên tắc chủ yếu:
Nguyên tắc nhất trí.
Nguyên tắc bình đẳng.
Nguyên tắc 6-X:
Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc.
Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài.
Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện.
Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực.
Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
VỊ THẾ CỦA VIỆT NAM TRONG ASEAN
Việc Việt Nam gia nhập tích cực, chủ động vào ASEAN đã làm thay đổi không những về mặt kinh tế, chính trị mà còn về văn hóa, xã hội, môi trường … của Việt Nam và cả ASEAN.
ASEAN trước năm 1995
ASEAN hình thành vào năm 1967 gồm 5 nước sáng lập: Thái Lan, Philippines, Malaysia, Singapore, và Indonesia.
“Trước khi Việt Nam gia nhập ASEAN, thế giới coi ASEAN là một tổ chức quân sự thân Mỹ, chống cộng, chống các nước Trung Quốc, Lào, Việt Nam Theo lời Tổng thư ký ASEAN Ong Keng Yong
”.
Việt Nam và các nước ASEAN trong tình trạng đối đầu căng thẳng.
Lúc đó, ASEAN không có văn phòng, ban thư ký, ngân sách, chương trình nghị sự hàng năm hay báo cáo hàng năm... Tình trạng này kéo dài mãi đến năm 1976.
=> ASEAN trước 1995 chỉ là một tổ chức quân sự tập thể và không có chích sách phát triển khu vực.
ASEAN sau năm 1995
Kể từ ngày 28.7.1995, khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, đã có rất nhiều điều thay đổi trong Hiệp hội.
ASEAN trở thành một đối tác về quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh không chỉ với Trung Quốc mà cả với các nước lớn khác trong và ngoài khu vực.
Hình ảnh của ASEAN trên thế giới và khu vực đã được thay đổi hoàn toàn, không còn là kẻ thù.
“Việc Việt Nam tham gia tổ chức này đã kéo theo Lào, Campuchia và Myanma, giúp ASEAN trở thành một hiệp hội hùng mạnh với 10 thành viên Theo báo Tân Hoa Xã của Trung Quốc ra ngày 28.11
”.
Sự tham gia của Việt Nam cũng làm thay đổi bản chất lẫn phương hướng phát triển của ASEAN, thay đổi cả về lượng và chất, khiến tổ chức này trở thành một diễn đàn hữu nghị và hợp tác thực sự. Các nỗ lực của Việt Nam đã góp phần biến ASEAN thành một nhân tố quan trọng đối với hoà bình, ổn định, hợp tác, và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới.
Vị thế của Việt Nam trong ASEAN
Từ khi gia nhập vào Hiệp hội, Việt Nam đã khẳng định vai trò, vị trí của mình ngày càng tăng trong ASEAN.
Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á về kinh tế, xã hội và quân sự. Việt Nam là sự liên kết giữa vùng phía bắc và phía nam trong khu vực. Do đó, đóng góp chính của Việt Nam là gắn kết mọi vùng của Đông Nam Á thành một khối thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi về giao thông cũng như việc hội nhập kinh tế, văn hóa.
Khối thống nhất này có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của ASEAN. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ chia rẽ và đối đầu, các nước Đông Nam Á đã vượt qua những rào cản vô hình để đoàn kết và hợp tác, cùng hướng tới mục tiêu xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và thịnh vượng, đồng thời phá bỏ được thể cấm vận của Mỹ.
Việt Nam góp phần thúc đẩy, tăng cường các quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư, giao lưu phát triển văn hoá, thể thao giữa các nước ASEAN với nhau (Đại hội thể thao các nước Đông Nam Á - SEA Games, Đại hội thể thao trong nhà Châu Á – AIGs, Đại hội thể thao Sinh viên Đông Nam Á – AUG, Giọng hát vàng ASEAN lần 1 - 2008... ).
Việt Nam cũng góp phần làm cho Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (TAC - 1992) trở thành một bộ luật hành vi ứng xử, không chỉ phục vụ cho các mối quan hệ trong nội bộ ASEAN mà còn với cả các thành viên ngoài hiệp hội này.
Từ khi gia nhập, Việt Nam đã giữ những vị trí quan trọng và tổ chức thành công các Hội nghị, Đại hội trong khu vực.
Việt Nam là thành viên sáng lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính thức của APEC (1998).
Tháng 12/1998: Tuy chịu những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính năm 1997 nhưng Việt Nam đã đăng cai tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần 6 với "Chương trình hành động Hà Nội" (HPA) được thông qua, vừa mang tính định hướng vừa đưa ra giải pháp cho việc hiện thực hóa “Tầm nhìn 2020" - nền tảng tư tưởng cho sự thiết lập Cộng đồng ASEAN sau đó (10/2003).
Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN nhiệm kỳ 2000 - 2001; Chủ tịch Hiệp hội Luật ASEAN (ALA - 17/10/2009); Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp các nước ASEAN (ASEAN CCI); Sắp tới đây Việt Nam sẽ đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN (2010). Ngoài ra Việt Nam còn tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34 (AMM-34), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEM lần thứ 9 (FMM-9).
Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Ô-xtrây-lia, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác ASEAN+3 (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các nước này.
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thuyết phục các đối tác EU chấp thuận kết nạp Myanma, một trong 3 thành viên mới của ASEAN vào ASEM. Điều này đã góp phần duy trì sự thống nhất và hòa thuận trong ASEAN.
Cộng đồng ASEAN được xây dựng trên ba trụ cột chính: Cộng đồng văn hóa - xã hội, Cộng đồng chính trị - an ninh và Cộng đồng kinh tế. Một trong ba trụ cột của cộng đồng ASEAN: Cộng đồng văn hóa - xã hội là sáng kiến của Việt Nam.
Vào ngày 16 tháng 12 năm 2008, Hiến chương ASEAN đã được thông qua. Trong việc xây dựng hiến chương, Việt Nam đóng vai trò là thành viên tham gia soạn thảo và có nhiều đóng góp. Đặc biệt, tiếng nói của Việt Nam rất quan trọng trong các vấn đề đổi mới cơ chế ASEAN, các nguyên tắc hoạt động của tổ chức, vấn đề giải quyết xung đột và đóng góp tài chính.
Và mới đây, ngày 5 tháng 11 năm 2009, Việt Nam đã khai mạc và tổ chức thành công Đại hội Thể thao trong nhà Châu Á lần III – AIGs (Asia Indoor Games). Trong lần đại hội này Việt Nam đã giành được giải Á quân toàn đoàn.
Vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên thế giới.
THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC
Trong xu thế đối thoại và mở cửa của quan hệ hợp tác kinh tế hiện nay thì tất cả các quốc gia trên thế giới đều đối mặt với những thời cơ và thách thức để đưa nền kinh tế của đất nước mình tiến lên. Không nằm ngoài xu thế ấy, Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn non kém nhưng tiềm năng của đất nước còn rất lớn thì cũng gặp những thời cơ và thách thức phải cần phải vượt qua.
Thời cơ
ASEAN là cửa ngõ đầu tiên và then chốt cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.
Thông qua ASEAN chúng ta đã được mở rộng không gian hợp tác với các nước trên thế giới nói chung và các nước Đông Nam Á nói riêng. Được giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục... , tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại của các nước tiên tiến, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam ra thế giới.
Nguồn: www.vietbao.vn
10 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới 2003
1
Thái Lan
7.750.000 tấn
2
Việt Nam
4.250.000 tấn
3
Ấn Độ
4.000.000 tấn
4
Mỹ
3.400.000 tấn
5
Trung Quốc
2.250.000 tấn
6
Pakistan
1.100.000 tấn
7
Miến Điện
1.000.000 tấn
8
Uruguay
650.000 tấn
9
Ai Cập
400.000 tấn
10
Argerntina
350.000 tấn
Theo VietNamNet, 4/4/2003
Dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ
Các sản phẩm của Việt Nam ngày càng được thị trường thế giới ưa chuộng kể cả thị trường khó tính như Nhật. Và quan trọng hơn đó là chúng ta đã đi tắt đón đầu, nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước.
Do nước ta nằm ở vị trí chiến lược, cộng với nguồn tài nguyên phong phú, nhân công dồi dào, tình hình chính trị ổn định đã giúp ta thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư của các nước bạn và trên trên thế giới. Đây là thuận lợi mà rất ít nước có được. Qua đó các nhà đầu tư đã tạo được nhiều việc làm cho người dân, đồng thời nâng cao mức sống của người dân Việt Nam.
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
CỦA CÁC NƯỚC ASEAN VÀO VIỆT NAM (1988-2007)
ĐVT: USD
Nước đầu tư
Số dự án
Vốn đăng ký
Vốn pháp định
1. Singapore
525
9,653,969,313
3,484,068,443
2. Malaysia
230
1,819,421,518
849,355,234
3. Thái Lan
160
1,561,556,926
605,116,448
4. Philippines
32
247,378,899
125,157,336
5. Indonesia
16
141,892,000
75,905,600
6. Brunei
39
128,881,421
53,161,421
7. Lào
8
23,353,528
15,613,527
8. Campuchia
5
5,200,000
3,390,000
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP CỦA ASEAN TẠI VIỆT NAM:
Khu công nghiệp
Địa điểm
Việt Nam - Singapore
Bình Dương
Việt Nam – Thái Lan AMATA
Đồng Nai
Việt Nam – Malaysia
Đà Nẵng
Việt Nam – Malaysia
Nội Bài, Hà Nội
Nguồn: www.vietbao.vn
SƠ ĐỒ PHÂN BỐ VỐN FDI VÀO CÁC NƯỚC ASEAN
Sự thiết lập Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) sẽ làm tăng nhanh mức độ tin cậy và ý thức cộng đồng trong ASEAN, thúc đẩy hợp tác chính trị - an ninh nội khối lên tầm cao mới.
Điều này sẽ gúp phần tạo ra sự thăng bằng trong hợp tác khu vực và quốc tế, làm tăng khả năng phòng ngừa và tiến tới giải quyết các xung đột có thể xảy ra trong tương lai.
Thách thức
Trong quá trình hội nhập mở của, bên cạnh những thuận lợi chúng ta còn gặp những thách thức phải vượt qua.
Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng nhanh chóng, thuộc vào loại nhanh thứ hai ở châu Á, chỉ sau có Trung Quốc, song có điều chưa thể hoàn toàn yên tâm vì nguy cơ tụt hậu vẫn còn đó. Các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê vào năm 2004 đã cho thấy, nếu xét theo GDP thực tế, Việt Nam hiện vẫn chỉ ở vị trí xếp hạng thứ 7 trong khối 10 nước ASEAN (đứng trước Myanma, Campuchia và Lào) và đứng thứ 58 trên thế giới, vẫn thuộc vào nhóm nước nghèo.
So sánh GDP giữa Việt Nam và Thái Lan (USD)
2002
2003
2004
2005
Thái Lan
2043
2173
2346
2580
Việt Nam
439
471
509
549
Hệ số so sánh TL/VN (lần)
4,65
4,61
4,60
4,69
Nguồn: Số liệu của ASEAN Statistic Unit
Để thực hiện được mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX (2001) đề ra là trở thành nước công nghiệp. Chúng ta cần phải phấn đấu vượt qua một số trở ngại, thách thức sau đây trong tiến trình hội nhập ASEAN nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung:
Nguy cơ tụt hậu
Sự tồn tại một hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của nền sản xuất xã hội còn nhiều lạc hậu, bao gồm cả những vấn đề còn rất nan giải như hệ thống máy móc, thiết bị chủ yếu là ở các thế hệ cũ, hệ thống giao thông - dịch vụ tài chính, ngân hàng... cùng với quá trình đô thị hoá tuy đã khá hơn nhiều so với trước song vẫn còn khấp khểnh chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển bền vững ở nước ta.
Năng lực cạnh tranh còn thấp, chậm được cải thiện.
Do các nước trong khu vực ASEAN có nền văn hóa tương đồng nhau nên có nhiều sản phẩm giống nhau.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm 1999, 60/75 nước năm 2001 và 65/80 năm 2002.
Năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu. Nhiều doanh nghiệp nhà nước tồn tại được là nhờ có sự bảo hộ, trợ cấp của Nhà nước. Tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ còn lớn. Xét về tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam cũng còn thua kém hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Trình độ lao động còn thấp và hiện tượng “chảy máu chất xám”
Tuy những năm gần đây Việt Nam đã phát triển một cách vượt bậc nhưng vẫn còn đó những hạn chế, bất cập về nguồn nhân lực trình độ cao trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và khu vực.
THÔNG SỐ CUNG – CẦU NHÂN LỰC TRỰC TUYẾN TẠI VIỆT NAM
Quý
Q3/2007
Q2/2007
Q1/2007
Q4/2006
Q3/2006
Chỉ số cầu
15.964
15.025
10.550
7.792
6.163
Chỉ số cung
10.719
11.580
8.864
9.661
10.254
Nguồn: www.vietnamworks.com
Trong các kỳ thi Olympic quốc tế, Việt Nam đã giành được nhiều huy chương vàng, bạc, đồng. Điều đó chứng tỏ nước ta có rất nhiều nhân tài nhưng vì chúng ta chưa có chính sách đào tạo, thu hút nhân tài cụ thể nên đã xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”, những người có trình độ đã bị các công ty nước ngoài thu hút về làm việc còn các công ty của ta vẫn chưa thuyết phục được họ.
Nguy cơ phá hoại Xã hội Chủ nghĩa và phai nhạt bản sắc dân tộc
Khi mở của hội nhập thì nền văn hóa phương Tây xâm nhập vào Việt Nam càng nhiều, ảnh hưởng vào nước ta dưới nhiều dạng hình thức khác nhau, các loại hình văn hoá phẩm đồi truỵ lôi kéo, dụ dỗ người dân vào con đường lệch lạc trong cách sống, dẫn đến dễ bị tha hoá, biến chất thành những con người ích kỷ, thực dụng nên gây ra nhiều tệ nạn xã hội hòng chống phá chế độ Xã hội chủ nghĩa, đường lối đúng đắn của Đảng, của Nhà nước ta.
Bên cạnh việc hội nhập thì Việt Nam phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là môi trường hành chính quốc gia, tập trung đẩy nhanh quá trình hoàn thiện kinh tế thị trường, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh cho các nhà đầu tư; nỗ lực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu phát triển không chỉ cho đất nước mà còn cho các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Ngoài ra còn những khó khăn, thách thức khác là tình trạng môi trường thiên nhiên ngày càng xấu hơn, thiên tai, dịch bệnh do đó càng gia tăng mạnh, chủ nghĩa khủng bố vẫn đang là hiểm hoạ lớn nhất của thế giới không riêng gì Việt Nam... Những vấn đề này đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp giải quyết triệt để, nếu không thì nguy cơ Việt Nam sẽ trở thành bãi rác của thế giới.
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN
Không ngoài xu thế đối thoại và hợp tác, Việt nam cũng đang trong quá trình mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực nói riêng và thế giới nói chung.
G