Đề tài Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới gắn với quá trình toàn cầu hóa và khu vực do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Đối với các nước công nghiệp,hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đối với các nước đang và chậm phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là giải pháp để khai thác hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh, khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển bên ngoài, tránh được tình trạng tụt hậu trong phát triển.Việt Nam mới hội nhập kinh tế quốc tế trong khoảng ba thập kỉ trở lại đây, việc hội nhập kinh tế quốc tê cách sau khá xa so với các nước trên thế giới và trong khu vực tạo cho Việt Nam rất nhiều thách thức trong việc hội nhập cũng như chịu đựng sức ép của nền kinh tế thế giới, tuy nhiên hội nhập kinh tế cũng mở ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội phát triển. Trong quá trình hội nhập Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, việc hội nhập đó đòi hỏi Việt Nam cần có những cam kết tuân thủ pháp luật thương mại quốc tế cũng như những cam kết khi gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Phạm vi bài viết xin trình bày về vấn đề Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế.

doc35 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2674 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế. Bài làm: I.Lời mở đầu: Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới gắn với quá trình toàn cầu hóa và khu vực do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Đối với các nước công nghiệp,hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đối với các nước đang và chậm phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là giải pháp để khai thác hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh, khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển bên ngoài, tránh được tình trạng tụt hậu trong phát triển.Việt Nam mới hội nhập kinh tế quốc tế trong khoảng ba thập kỉ trở lại đây, việc hội nhập kinh tế quốc tê cách sau khá xa so với các nước trên thế giới và trong khu vực tạo cho Việt Nam rất nhiều thách thức trong việc hội nhập cũng như chịu đựng sức ép của nền kinh tế thế giới, tuy nhiên hội nhập kinh tế cũng mở ra cho Việt Nam rất nhiều cơ hội phát triển. Trong quá trình hội nhập Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, việc hội nhập đó đòi hỏi Việt Nam cần có những cam kết tuân thủ pháp luật thương mại quốc tế cũng như những cam kết khi gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Phạm vi bài viết xin trình bày về vấn đề Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế và một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế. II.Phần nội dung: 1.Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế: 1.1 Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế: Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế nhưng nhìn chung quan niệm tương đối phổ biến hiện nay là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác khu vực và toàn cầu, trong đó các nước thành viên chịu sự ràng buộc hoặc theo quy định chung của cả khối.Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình quốc gia thực hiện mô hình liên kết kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. 1.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu: + Đàm phán để cắt giảm các rào cản thuế quan + Giảm dần và loại bỏ các rào cản phi thuế quan + Giảm thiểu các hạn chế đối với hoạt động dịch vụ + Giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động đầu tư quốc tế + Điều chỉnh các quy định và công cụ của chính sách thương mại khác + Phát triển các hoạt động văn hóa giáo dục y tế trên toàn cầu. 1.3 Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam: Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là vấn đề thời sự của hầu hết các nước, thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu, nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu.Mặt khác mở cửa kinh tế quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đối với những nước mà sức cạnh tranh còn kém, trình độ khoa học kĩ thuật chưa cao. Là một nước nghèo trên thế giới, bị tàn phá bởi hàng chục năm chiến tranh, Việt Nam bắt đầu chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế bao cấp nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế thị trường đầy rẫy sức ép và khó khăn.Nhưng đứng trước xu thế phát triển tất yếu của nên kinh tế, Việt nam là một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể đứng ngoài việc hội nhập kinh tế. Chỉ có hội nhập kinh tế Việt Nam mới có thể khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. + Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt nam phát triển nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại nếu Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ là động lực để thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. + Việc hội nhập nền kinh tế quốc tế cũng góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam.Cùng với việc được hưởng những ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế đội đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. + Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng thu hút đầu tư nước ngoài tới Việt Nam, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế. + Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp thu khoa học kĩ thuật công nghệ tiên tiến thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, các kĩ thuật công nghệ mới có điều kiện du nhập vào Việt Nam nhằm phát triển năng lực kĩ thuật công nghệ quốc gia.Đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. + Hội nhập kinh tế góp phần duy trì hòa bình ổn định tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. + Hội nhập kinh tế còn tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước như nguồn lực lao động, nhập khẩu các lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, phát minh sáng chế mà Việt Nam chưa có. 2.Quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế: Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý.Việc đặt ra một lộ trình quá ngắn về thời hạn mở cửa thị trường và mức độ giảm các loại thuế quá lớn ngay lập tức sẽ vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế dẫn đến thua thiệt,sự đổ vỡ của hàng loạt các doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước và kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà nước gâu tâm lý trì trệ ỷ lại, không dốc sức cải tiến công nghệ,kéo dài tình trạng kém hiệu quả yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy xác định lộ trình hội nhập là rất quan trong đây không chỉ là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta, phát huy lợi thế so sánh chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế, thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hóa và đầu tư dịch vụ. Việt Nam đã và đang tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khu vực và toàn cầu. Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế 1986 đến nay Việt Nam đã từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Kể từ khi tiến hành đổi mới đến giữa những năm 1990, Việt Nam thực hiện hội nhập chủ yếu thông qua việc tự do hóa đơn phương, kí kết các hiệp định thương mại và hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư với các nước. Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã mở cửa các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hóa quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng đó tháng 7/1995 Việt nam đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế khoa học kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu EU đồng thời bình thường hóa quan hệ với Mĩ.Tháng 11/ 1998 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Tháng 7/ 2000 hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kì được kí kết. Sau 11 năm chuẩn bị để gia nhập WTO và 8 năm đàm phán thì tháng 10/ 2006 Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, vừa tiếp tục tiến hành tự do hóa, vừa đẩy mạnh các mối liên kết song phương, tiểu khu vực và đa phương. Các giao dịch thương mại, đầu tư và dịch vụ giữa các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế của Việt Nam với phần còn lại của thế giới đang ngày càng mở rộng cả về quy mô, mức độ, pham vi và gia tăng về tốc độ. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra nhiều cơ hội đồng thời cũng dẫn đến nhiều thách thức to lớn đối với nền kinh tế việt nam.Các thách thức này là khả năng cạnh tranh quốc tế khá hạn chế của hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp Việt Nam và khả năng cạnh tranh thấp của quốc gia, nguy cơ bị phá sản của các doanh nghiệp và mất thị trường trong nước trước các đối thủ nước ngoài,suy thoái tài nguyên, tác động xấu về văn hóa an ninh.Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế là hai chiều nên cần chủ động khai thác triệt để cơ hội giảm thiểu thach thức để chủ động hội nhập kinh tế có hiệu quả. 3.Một số vấn đề liên quan đến pháp luật về thương mại quốc tế: Việc Việt Nam hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu đòi hỏi Việt Nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật kinh tế quốc tế nói chung cũng như quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật của các tổ chức kinh tế nói riêng. 3.1 Các quy định cơ bản về thương mại hàng hóa quốc tế: Thương mại hàng hóa quốc tế được hiểu là tổng thể các hoạt động thương mại liên quan đến hàng hóa được các nước tiến hành với nhau. Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, Việt Nam cần tuân thủ các quy định của thương mại quốc tế như thuế quan, các quy định về nông nghiệp và nông sản, về tiêu chuẩn an toàn sản phẩm, các quy định về chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, các rào cản phi thuế quan và các quy định cụ thể khác đối với mỗi tổ chức kinh tế quốc tế. Các quy định về thuế quan: Thuế quan là một lĩnh vực quan trọng được cộng đồng thương mại quốc tế quan tâm, WTO và các khối liên kết kinh tế quan tâm quy định tương đối chi tiết để áp dụng trong lĩnh vực thương mại hàng hóa. Thuế quan thường được hiểu là các khoản thu của nhà nước đánh vào hàng hóa khi hàng hóa đó di chuyển từ lãnh thổ hải quan này sang lãnh thổ hải quan khác nhằm tăng cường nguồn thu ngân sách quốc gia và bảo hộ hàng hóa tương tự trong nước.Những vấn đề quan trọng liên quan tới thuế quan mà các nước thường quan tâm bao gồm: danh mục thuế quan, mức thuế trần và lộ trình giảm thuế quan. Đối với mỗi danh mục thuế quan, mỗi nước có danh mục thuế quan của riêng mình và được công bố rộng rãi cho mọi người liên quan thực hiện.WTO từ khi thành lập đã có 22.500 trang danh mục thuế quan cam kết của các nước đối với một số loại hàng hóa cụ thể được thỏa thuận trong khuôn khổ WTO, nhất là các loại cam kết cắt giảm thuế và mức thuế trần đối với hàng hóa nhập khẩu.ASEAN/AFTA cũng có danh mục thuế quan cam kết của các nước thành viên, trong đó có danh mục cam kết của Việt Nam cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ thỏa thuận CEPT/AFTA. Đối với mức thuế trần các danh mục mở cửa thị trường không chỉ đơn giản là những barem về thuế quan.Chúng chính là những cam kết không tăng thuế vượt quá một mức đã được xác định, được gọi là mức trần, thường là mức thuế đang được áp dụng trên thực tế.Có nhiều mức thuế trần khác nhau.Đa số các nước đang phát triển thường có mức thuế trần cao hơn một chút so với mức thuế đang áp dụng. Luật thương mại quốc tế có quy định ngoại lệ đối với quy tắc nói trên, tức có thể chấp nhận cho phép một nước có thể phá bỏ mức thuế trần.Nhưng để làm được điều này nước đó phải đàm phán với các nước liên quan và có thể bị buộc phải bồi thường thiệt hại thương mại cho các đối tác liên quan.Việt Nam đã phải đàm phán với Thái Lan về vấn đề này trong quá trình thực hiện các cam kết của mình về CEPT/AFTA năm 2004- 2005. Về lộ trình giảm thuế quan, kết quả vòng đàm phán Urugoay về việc thành lập WTO cho thấy các nước phát triển chấp nhận giảm từng bước hàng rào thuế quan trong vòng 5 năm kể từ ngày 1/1/1995. Mỗi nước tham gia thỏa thuận phải áp dụng thống nhất cam kết của mình đối với hàng hóa nhập khẩu của tất cả các nước thành viên WTO phù hợp với nguyên tắc tối huệ quốc. Lộ trình của Việt Nam với AFTA là năm 2006, đối với Hoa Kỳ theo cam kết trong hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ cũng khoảng thời gian cơ bản tương tự. Các quy định về nông nghiệp và nông sản: Hiệp định về nông nghiệp cho phép các chính phủ được hỗ trợ khu vực nông thôn nhưng bằng những biện pháp tác động tối thiểu đến cạnh tranh.Các nước đang phát triển không bị buộc phải giảm trợ cấp hoặc thuế suất bằng với mức của các nước phát triển và có thêm thời gian để thực hiện cam kết của mình. Có một số điều khoản đặc biệt quy định về lợi ích của các nước bị buộc phải nhập khẩu lương thực thiết yếu và đề cập những mối quan tâm của những nước kém phát triển. Đối với những sản phẩm trước kia bị hạn chế bằng hạn ngạch thì sẽ bị đánh thuế; các nước được phép áp dụng những biện pháp khẩn cấp đặc biệt nhằm bảo vệ nông dân trước việc giá cả giảm đột ngột hay việc hàng nhập khẩu tăng mạnh. Hiệp định cũng nêu rõ khi nào và như thế nào thì các biện pháp khẩn cấp này có thể được áp dụng. Đối với trợ cấp xuất khẩu, hiệp định về nông nghiệp cấm việc trợ cấp cho xuất khẩu nông sản, trừ khi chúng được nêu rõ trong danh mục cam kết của các nước thành viên. Trong trường hợp đó, các nước sẽ bị buộc phải giảm đồng thời mức trợ cấp và khối lượng hàng hóa xuất khẩu được trợ cấp. Các quy định về tiêu chuẩn và an toàn sản phẩm: Luật thương mại quốc tế cho phép các nước được can thiệp vào các giao dịch hàng hóa nhằm bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người và động vất hoặc bảo tồn các loài thực vật với điều kiện các nước không được phân biệt đối xử và không được lạm dụng nhằm bảo hộ trá hình. Ngoài ra WTO có riêng hai hiệp định điều chỉnh mức độ an toàn của lương thực, sức khỏe và sự an toàn cho các loài động thực vật (Hiệp định SPS), cũng như tiêu chuẩn kĩ thuật đối với một số sản phẩm (Hiệp định TBT). Các quy định về an toàn đối với lương thực, động vật và thực vật: Hiệp định SPS quy định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật, hiệp định cho phép các nước xây dựng cho mình những tiêu chuẩn riêng, song cũng quy định các tiêu chuẩn này phải có căn cứ khoa học. Các nước thành viên của WTO được khuyến khích áp dụng các tiêu chuẩn, định hướng hoặc khuyến nghị quốc tế sẵn có. Tuy vậy các nước vẫn có thể thông qua những biện pháp sử dụng những chuẩn cao hơn nếu họ có cơ sở khoa học. Họ cũng có thể xây dụng những tiêu chuẩn khắt khe hơn dựa trên việc đánh giá hợp lý các rủi ro, với điều kiện phương pháp tiến hành phải chặt chẽ, không tùy tiện. Trong một chừng mực nào đó, các nước này có thể áp dụng nguyên tắc phòng ngừa trong trường hợp chưa có căn cứ khoa học chắc chắn. Hiệp định còn có các điều khoản về thủ tục kiểm tra giám định và công nhận độ an toàn. Chính phủ các nước phải thông báo trước những quy định mới hoặc được sửa đổi về vệ sinh dịch tễ mà mình sẽ áp dụng và thiết lập một cơ sở thông tin quốc gia. Các quy định về kĩ thuật và tiêu chuẩn: Hiệp định TBT thừa nhận quyền của các nước được đưa ra những chuẩn mực mà họ cho là thích hợp để bảo vệ sức khỏe và cuộc sống của con người và động vật để bảo tồn các loài thực vật, bảo vệ môi trường hay các quyền lợi khác của người tiêu dùng.Các nước thành viên Hiệp định này không bị cấm thông qua các biện pháp cần thiết để bảo đảm việc tuân thủ các chuẩn mực này.Để tránh có sự chênh lệch quá lớn, hiệp định khuyến khích các nước áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế khi chúng tỏ ra phù hợp. Các quy định về dệt may: Từ năm 1974 đến cuối vòng đàm phán Urugoay, thương mại sản phẩm dệt may chịu sự điều chỉnh của hiệp định Đa sợi (MFA).Hiệp định này tạo khung pháp lý cho việc thiết lập các hạn ngạch nhập khẩu trên cơ sở các thỏa thuận song phương hoặc bằng các biện pháp đơn phương nhằm hạn chế nhập khẩu vào thị trường các nước mà ngành sản xuất có nguy cơ bị rối loạn do sự lan tràn của hàng nhập khẩu. Các hạn ngạch quota là phần nổi bật của hệ thống này, khuyến khích áp dụng thuế quan hơn là các biện pháp hạn chế định lượng. Chúng đã tạo nên một ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa tất cả các đối tác thương mại trong hệ thống GATT. Từ năm 1995, hiệp định Dệt may của WTO (ATC) đã thay thế cho hiệp định đa sợi. Đến ngày 1.1.2005, ngành dệt may cần phải áp dụng hoàn toàn hệ thống các các luật lệ thông thường của GATT, đặc biệt các nước phải xóa bỏ hạn nghạch và các nước nhập khẩu không được đối xử phân biệt giữa các nước xuất khẩu. Các quy định về chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ: +) Theo hiệp định AD, một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu của sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại bình thường của sản phẩm tương tự được tiêu thụ tại thị trường nước xuất khẩu. Hiệp định AD có quy định chi tiết đối với việc so sánh về giá để đi đến quyết định cuối cùng về việc bán phá giá, quy định cách thức xác định “giá trị bình thường”.Hiệp định cho phép chính phủ các nước có biện pháp chống bán phá giá khi ngành sản xuất trong nước thực sự bị thiệt hại vật chất do việc bán phá giá gây ra. Hiệp định AD, pháp luật AD của Việt Nam thừa nhận việc chống bán phá giá bất kể hành vi nào có hợp lý hay bất hợp lý từ góc độ kinh tế và bất kể có đem lại lợi ích cho người tiêu dùng hay không. +) Luật thương mại quốc tế có quy định khá cụ thể về trợ cấp và các biện pháp chống trợ cấp trong thương mại quốc tế. WTO có hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng.Hiệp định SCM có chức năng kép: thiết lập kỉ cương đối với trợ cấp của quốc gia, và quy định các biện pháp mà các nước có thể áp dụng nhằm bù đắp các hậu quả của trợ cấp.Hiệp định SCM có quy định ba loại trợ cấp là: Các loại trơ
Luận văn liên quan