Trái đất được hình thành từ nhiều nguyên tố khác nhau trong đó có các
nguyên tố phóng xạ. Phóng xạ được phân bố rộng khắp các quyển của trái đất:
thạch quyển, địa quyển, thủy quyển, khí quyển và sinh quyển. Không giống với
các sinh vật khác sống trong môi trường tự nhiên, con người còn sống trong môi
trường nhân tạo: đô thị và làng mạc và môi trường nhân tạo này được xây dựng
từ những vật liệu khác nhau. Những vật liệu này được lấy từ thiên nhiên nên
chúng có chứa các nguyên tố phóng xạ. Trong chu kỳ 24 giờ, con người sống,
sinh hoạt bên trong ngôi nhà của mình nhiều hơn bên ngoài khoảng 80%. Điều
gì sẽ xảy ra nếu các vật liệu cấu trúc nên ngôi nhà có độ phóng xạ cao. Việc
đánh giá liều phóng xạ trong các vật liệu xây dựng do đó trở nên rất quan trọng.
Trên thế giới, vấn đề này đã được nghiên cứu từ những năm 80 của thế kỉ trước
và cũng đã có tiêu chuẩn xây dựng của từng quốc gia. Tại Việt Nam mãi đến
năm 2006, vấn đề này mới thật sự được quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu. Đến
năm 2007, Bộ xây dựng đã có quyết định về việc ban hành tiêu chuẩn xây dựng
Việt Nam TCXDVN 397:2007 “Hoạt độ phóng xạ tự nhiên của vật liệu xây
dựng. Mức an toàn trong sử dụng và phương pháp thử”. Phóng xạ trong vật liệu
xây dựng chủ yếu là kali, uranium, thorium và các nhân được tạo thành từ chuỗi
phân rã phóng xạ của chúng, trong đó quan trọng nhất là radium (Ra-226). Sự
có mặt của Ra-226 trong vật liệu xây dựng gây nên một liều chiếu cho những
người sống trong nhà bởi việc hít thở khí radon phân rã từ radium và thoát ra từ
vật liệu xây dựng vào không khí trong nhà. Sự tác động này gây nên những ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người, đặc biệt là làm gia tăng tỷ lệ
ung thư phổi [30].
108 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định hoạt độ phóng xạ trong gạch men, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM
KHOA VAÄÄT LYÙÙ
----- -----
NGUYỄN THỊ YẾN DUYÊN
Ñeà taøi:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khóa 30
Ngöôøi höôùng daãn:
TS. TRẦN VĂN LUYẾN
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn, em đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Xin cho phép em được bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến:
TS. Thái Khắc Định, người thầy đã định hướng và tạo điều kiện cho em chọn
đề tài nghiên cúư này để làm luận văn. TS. Trần Văn Luyến, người thầy đã truyền
cho em sự say mê nghiên cứu khoa học, trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt em thực hiện
những thao tác thí nghiệm. Em xin cám ơn hai thầy đã truyền đạt cho em những
kiến thức và kinh nghiệm quý báu cùng những lời động viên và chỉ bảo tận tình.
Quý thầy, cô trong khoa Vật Lý trường Đại học Sư phạm TP. HCM đã truyền
đạt cho em những kiến thức bổ ích, giúp em vững tin khi bước vào đời.
Ban giám đốc trung tâm hạt nhân TP. HCM đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho em hoàn thành luận văn. Các thầy và anh chị phòng An toàn và bức xạ môi
trường đã chỉ dẫn em tận tình.
Các bạn lớp lý IV K30, đặc biệt là bạn Lê Thị Lụa đã luôn sát cánh và giúp
đỡ mình trong những giai đoạn khó khăn nhất.
Xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến ba mẹ và gia đình vì đã luôn ủng hộ, tạo mọi
điều kiện tốt nhất cho con hoàn thành luận văn.
Nguyễn Thị Yến Duyên
BẢNG KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC ĐƠN VỊ ĐO
Ước số và bội số đơn vị đo
Thang đo Tên gọi Kí hiệu
10-18 = atto (a)
10-15 = femto (f)
10-12 = pico (p)
10-9 = nano (n)
10-6 = micro ()
10-3 = milli (m)
10+3 = kilo (k)
10+6 = mega (M)
10+9 = giga (G)
10+12 = tera (T)
10+15 = peta (P)
10+18 = exa (E)
Năng lượng bức xạ
1 Gray (Gy) = 1 J/kg
1 rad = 10mGy = 1E-7 J hấp thụ trong 1 gram vật chất.
1 Sievert (Sv) = 100 rem; 1 mSv = 0.1 rem.
1 Curie (Ci) = 3.7.1010 Becquerel (Bq) = hoạt độ phóng xạ của 1 gram Radi
1 Ebq = 1018Bq
1 gray = 100 rad
1 sievert = 100 rem
1 rem = 0.01 sievert
1 rad = 1000 millirad = 0.01 gray
1 Roengten (R) = 0.876 rad (in air)
Chữ viết tắt
Ge Germani – Nguyên tố Germani
GIS Geological Informatic System – Hệ thống thông tin địa lý
GPS Global Position System – Hệ thống định vị toàn cầu
FWHF Full width Half Maximum – Bề rộng ở nửa giá trị cực đại
HPGe High Pure Germani: Germani siêu tinh khiết
IAEA International Atomic Energy Agency – Nguyên tử năng quốc tế
ICRP International Commision for Radiological Protection - Ủy ban an
toàn phóng xạ quốc tế
OED Oranization for Europe Cooperration and Development – Tổ chức
hợp tác và phát triển Châu Âu
OECD Oranization for Economic Cooperation and Development – Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế
T1/2 Chu kì bán hủy – Nửa thời gian sống của một đồng vị phóng xạ
UNSCEAR United Nations scientific Committee on the Effects of Atomic
Radiation – Hội đồng tư vấn khoa học của Liên Hiệp Quốc về ảnh
hưởng của bức xạ nguyên tử.
Tp HCM Thành phố Hồ Chí Minh.
LỜI MỞ ĐẦU
Trái đất được hình thành từ nhiều nguyên tố khác nhau trong đó có các
nguyên tố phóng xạ. Phóng xạ được phân bố rộng khắp các quyển của trái đất:
thạch quyển, địa quyển, thủy quyển, khí quyển và sinh quyển. Không giống với
các sinh vật khác sống trong môi trường tự nhiên, con người còn sống trong môi
trường nhân tạo: đô thị và làng mạc và môi trường nhân tạo này được xây dựng
từ những vật liệu khác nhau. Những vật liệu này được lấy từ thiên nhiên nên
chúng có chứa các nguyên tố phóng xạ. Trong chu kỳ 24 giờ, con người sống,
sinh hoạt bên trong ngôi nhà của mình nhiều hơn bên ngoài khoảng 80%. Điều
gì sẽ xảy ra nếu các vật liệu cấu trúc nên ngôi nhà có độ phóng xạ cao. Việc
đánh giá liều phóng xạ trong các vật liệu xây dựng do đó trở nên rất quan trọng.
Trên thế giới, vấn đề này đã được nghiên cứu từ những năm 80 của thế kỉ trước
và cũng đã có tiêu chuẩn xây dựng của từng quốc gia. Tại Việt Nam mãi đến
năm 2006, vấn đề này mới thật sự được quan tâm và đi sâu vào nghiên cứu. Đến
năm 2007, Bộ xây dựng đã có quyết định về việc ban hành tiêu chuẩn xây dựng
Việt Nam TCXDVN 397:2007 “Hoạt độ phóng xạ tự nhiên của vật liệu xây
dựng. Mức an toàn trong sử dụng và phương pháp thử”. Phóng xạ trong vật liệu
xây dựng chủ yếu là kali, uranium, thorium và các nhân được tạo thành từ chuỗi
phân rã phóng xạ của chúng, trong đó quan trọng nhất là radium (Ra-226). Sự
có mặt của Ra-226 trong vật liệu xây dựng gây nên một liều chiếu cho những
người sống trong nhà bởi việc hít thở khí radon phân rã từ radium và thoát ra từ
vật liệu xây dựng vào không khí trong nhà. Sự tác động này gây nên những ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người, đặc biệt là làm gia tăng tỷ lệ
ung thư phổi [30].
Vì những lý do trên, đề tài nghiên cứu của chị Phùng Thị Cẩm Tú, sinh
viên Khoa Lý tốt nghiệp năm 2006 đã tìm thấy trong một số các loại vật liệu
xây dựng như: xi măng, cát, gạch, đá xanh, ngói, đá hoa cương, gạch men thì
gạch men có độ phóng xạ khá cao? Đây là một câu hỏi cần phải được làm sáng
tỏ. Để đánh giá kỹ càng hơn và làm rõ nghi vấn này. Đề tài: “Xác định hoạt độ
phóng xạ trong gạch men” được thực hiện với khoảng 30 mẫu gạch men ốp, lát
1
khác nhau được thu thập và phân tích phóng xạ. Sau đó đánh giá các chỉ số
Index phóng xạ, liều hấp thụ trung bình hàng năm, hoạt độ Ra tương đương
Bố cục của luận văn:
Luận văn đuợc trình bày theo 4 chương:
Chương 1 trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu: nguồn gốc phóng xạ,
ảnh hưởng của bức xạ đến con người_mô sống, những ảnh hưởng của radon từ
vật liệu xây dựng đến sức khỏe con người
Chương 2 là phần đối tượng và phương pháp nghiên cứu: trình bày cấu tạo,
những đặc trưng của hệ phổ kế gamma phông thấp của Trung tâm hạt nhân TP
HCM và các đồng vị phóng xạ quan tâm.
Chương 3 là phần thực nghiệm: trình bày về quá trình thu thập, xử lý, đo mẫu
và tính toán hoạt độ các nhân phóng xạ quan tâm trong mẫu.
Chương 4 là phần kết quả nghiên cứu: trình bày các kết quả định tính và định
lượng của việc xử lý phổ gamma của mẫu; so sánh kết quả này với một số kết
quả của các nghiên cứu khác trên thế giới.
Phần kết luận đưa ra những nhận xét tổng quát rút ra từ kết quả của quá trình
nghiên cứu cùng đề xuất của tác giả về một số nguyên tắc bảo vệ an toàn phóng
xạ có liên quan đến phóng xạ tự nhiên trong gạch men.
2
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nguồn gốc phóng xạ
Mọi người và mọi vật đều cấu tạo từ nguyên tử. Một người lớn trung
bình là tập hợp của khoảng 4.1027 nguyên tử oxy, hydro, cacbon, nito, phốt pho
và các nguyên tố khác [29]. Khối lượng nguyên tử tập trung ở phần hạt nhân
nguyên tử mà độ lớn của nó chỉ bằng một phần tỷ của nguyên tử. Xung quanh
hạt nhân hầu như là khoảng trống, ngoại trừ những phần tử rất nhỏ mang điện
tích âm quay xung quanh hạt nhân được gọi là electron. Các electron quyết định
tính chất hoá học của một chất nhất định. Nó không liên quan gì với hoạt độ
phóng xạ. Hoạt độ phóng xạ chỉ phụ thuộc vào cấu trúc hạt nhân. Một nguyên tố
được xác định bởi số lượng proton trong hạt nhân. Hydro có 1 proton, heli có 2,
liti có 3, berili có 4, bo có 5 và cacbon có 6 proton. Số lượng proton nhiều hơn,
thì hạt nhân nặng hơn. Thori có 90 proton, protatini có 91 và urani có 92 proton
được xem là những nguyên tố siêu urani. Số lượng các nơtron quyết định hạt
nhân có mang tính phóng xạ hay không. Để các hạt nhân ổn định, số lượng
nơtron trong hầu hết mọi trường hợp đều phải lớn hơn số lượng protron một ít.
Ở các hạt nhân ổn định protron và nơtron liên kết với nhau bởi lực hút rất mạnh
của hạt nhân mà không phần tử nào thoát ra ngoài. Trong trường hợp như vậy,
hạt nhân sẽ tồn tại bền vững. Tuy nhiên mọi việc sẽ khác đi nếu số lượng nơtron
vượt khỏi mức cân bằng. Trong trường hợp này, thì hạt nhân sẽ có năng lượng
dư và đơn giản là sẽ không liên kết được với nhau. Sớm hay muộn nó cũng phải
xả phần năng lượng dư thừa đó. Hạt nhân khác nhau thì việc giải thoát năng
lượng dư cũng khác nhau, dưới dạng các sóng điện từ và các dòng phân tử.
Năng lượng đó được gọi là bức xạ.
Quá trình mà nguyên tử không bền giải thoát năng lượng dư của nó gọi là
sự phân rã phóng xạ. Hạt nhân nhẹ, với ít proton và nơtron trở lên ổn định sau
một lần phân rã. Khi một nhân nặng như radi hay urani phân rã, những hạt nhân
mới được tạo ra có thể vẫn không ổn định, mà giai đoạn ổn định cuối cùng chỉ
đạt được sau một số lần phân rã.
3
Ví dụ: urani 238 có 92 proton và 146 nơtron luôn mất đi 2 proton và 2
nơtron khi phân rã. Số lượng proton còn lại sau một lần urani phân rã là 90,
nhưng hạt nhân có số lượng proton 90 lại là thori, vì vậy urani 238 sau một lần
phân rã sẽ làm sinh ra thori 234 cũng không ổn định và sẽ trở thành protatini sau
một lần phân rã nữa. Hạt nhân ổn định cuối cùng là chì chỉ được sinh ra sau lần
phân rã thứ 14. Quá trình phân rã này xảy ra đối với nhiều hạt nhân phóng xạ có
ở trong môi trường.
Hoạt độ phóng xạ chỉ khả năng phát ra bức xạ của một chất. Hoạt độ
không có nghĩa là cường độ của bức xạ được phát ra hay những rủi ro có thể xảy
ra đối với sức khoẻ con người. Nó được quy định bằng đơn vị hoạt độ Becquerel
(Bq), phỏng theo tên một nhà vật lý người Pháp, Henri Becquerel. Hoạt độ
phóng xạ của một tập hợp các hạt nhân phóng xạ được tính bởi số các phân rã
trong nó trong một đơn vị thời gian. Nếu số lượng phân rã là 1/1 giây, thì hoạt
độ của chất đó được tính là 1 Bq. Hoạt độ không liên quan gì đến kích thước
hay khối lượng của một chất. Một nguồn phóng xạ có độ lớn bằng điếu thuốc lá
dùng trong một dụng cụ quan trắc phóng xạ có thể có hoạt độ lớn hơn hoạt độ cả
thùng lớn chất thải phóng xạ hàng tỷ lần. Nếu số lượng phân rã xảy ra ở một
lượng nhỏ của một chất là 1000/1 giây, hoạt độ của chất đó lớn hơn 100 lần so
với một số lượng lớn chất chỉ có 10 phân rã xảy ra trong 1 giây.
Tốc độ phân rã được mô tả bằng chu kỳ bán rã, đó là thời gian mà 1/2 số
hạt nhân không bền của một chất nào đó phân rã. Chu kỳ bán rã là đơn nhất và
không thay đổi cho từng hạt nhân phóng xạ và có thể là từ một phần giây đến
hàng tỷ năm. Chu kỳ bán rã của sulfua - 38 là 2 giờ 52 phút, của radi - 223 là
11,43 ngày, và cacbon - 14 là 5.730 năm. Trong các chu kỳ bán rã liên tiếp, hoạt
độ chất phóng xạ giảm bởi phân rã từ 1/2, 1/4, 1/8, 1/16 so với hoạt độ ban
đầu. Điều đó cho phép tính hoạt độ còn lại của bất cứ chất nào tại một thời điểm
bất kỳ trong tương lai.
Bức xạ có khắp nơi trong môi trường: trong đất, nước, không khí, thực
phẩm, vật liệu xây dựng, kể cả con người - một sản phẩm của môi trường. Hầu
hết các chất phóng xạ có đời sống dài đều sinh ra trước khi có trái đất, vì vậy
một lượng phóng xạ luôn tồn tại là điều bình thường không thể tránh khỏi.
4
Trong thế kỷ vừa qua, phông phóng xạ đã tăng lên không ngừng do các hoạt
động như thử vũ khí hạt nhân và phát điện hạt nhân. Mức độ phóng xạ phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: địa điểm, thành phần của đất, vật liệu xây dựng, mùa, vĩ
độ, và mức độ nào đấy nữa là điều kiện thời tiết: mưa, tuyết, áp suất cao, thấp,
hướng gió tất cả đều ảnh hưởng đến phông bức xạ. Bức xạ được xem là tự
nhiên hay nhân tạo là do nguồn gốc sinh ra của nó. Từ đó nguồn phóng xạ được
chia làm hai loại: nguồn phóng xạ tự nhiên và nguồn phóng xạ nhân tạo. Nguồn
phóng xạ tự nhiên là các chất đồng vị phóng xạ có mặt trên trái đất, trong nước
hay trong bầu khí quyển. Nguồn phóng xạ nhân tạo do con người chế tạo bằng
cách chiếu các chất trong lò phản ứng hạt nhân hay máy gia tốc.
1.1.1. Các nguồn phóng xạ tự nhiên: gồm hai nhóm: nhóm các đồng vị
phóng xạ nguyên thủy - có từ khi tạo thành trái đất và vũ trụ và nhóm đồng vị
phóng xạ có nguồn gốc từ vũ trụ - được tia vũ trụ tạo ra.
Một phần của phông phóng xạ là bức xạ vũ trụ đến từ không gian. Chúng
hầu hết bị cản lại bởi khí quyển bao quanh trái đất, chỉ một phần nhỏ tới được
trái đất. Trên đỉnh núi cao hoặc bên ngoài máy bay, độ phóng xạ lớn hơn nhiều
so với ở mặt biển. Các phi hành đoàn làm việc chủ yếu ở độ cao có bức xạ vũ
trụ lớn hơn mức bình thường ở mặt đất khoảng 20 lần. Các chất phóng xạ có đời
sống dài có trong thiên nhiên thường ở dạng các chất bẩn trong nhiên liệu hóa
thạch. Trong lòng đất, các chất như vậy không làm ai bị chiếu xạ, nhưng khi bị
đốt cháy, chúng được thải vào khí quyển rồi sau đó khuyếch tán vào đất, làm
tăng dần phông phóng xạ.
Nguyên nhân chung nhất của sự tăng phông phóng xạ là radon, một chất
khí sinh ra khi Radi kim loại phân rã. Các chất phóng xạ khác được tạo thành
trong quá trình phân rã tồn tại tại chỗ trong lòng đất, nhưng radon thì bay lên
khỏi mặt đất. Nếu nó lan toả rộng và hoà tan đi thì không gây ra nguy hại gì,
nhưng nếu một ngôi nhà xây dựng tại nơi có radon bay lên tới mặt đất, thì radon
có thể tập trung trong nhà đó, nhất là khi các hệ thống thông khí không thích
hợp. Radon tập trung trong nhà có thể lớn hơn hàng trăm lần, có khi hàng ngàn
lần so với bên ngoài. Loại trừ khí radon, bức xạ tự nhiên không có hại đối với
5
sức khoẻ. Nó là một phần của tự nhiên và các chất phóng xạ có trong cơ thể con
người cũng là một phần của tạo hoá.
* Nhóm đồng vị phóng xạ nguyên thủy
Phông phóng xạ trên trái đất gồm các nhân phóng xạ tồn tại cả trước và
khi trái đất được hình thành. Chúng có chu kỳ bán rã ít nhất khoảng vài triệu
năm, gồm có uranium, thorium và con cháu của chúng, cùng với một số nguyên
tố phóng xạ khác tạo thành bốn họ phóng xạ cơ bản: Họ thorium Th232(4n); họ
uranium U238(4n+2); họ actinium U235(4n+3) và họ phóng xạ nhân tạo
neptunium Pu241(4n+1).
Các đặc điểm của 3 họ phóng xạ tự nhiên:
- Thành viên thứ nhất là đồng vị phóng xạ sống lâu với thời gian bán rã được
đo theo các đơn vị địa chất.
- Mỗi họ đều có một thành viên dưới dạng khí phóng xạ, chúng là các đồng vị
khác nhau của nguyên tố radon: trong họ uranium là 86Rn222(radon), trong họ
thorium là 86Rn220(thoron), trong họ actinium là 86Rn219(actinon). Trong họ
phóng xạ nhân tạo neptunium không có thành viên khí phóng xạ.
- Sản phẩm cuối cùng trong mỗi họ phóng xạ tự nhiên đều là chì: Pb206 trong họ
uranium, Pb207 trong họ actinium và Pb208 trong họ thorium. Trong họ phóng xạ
nhân tạo neptunium, thành viên cuối cùng là Bi209.
6
232
230
228
226
224
222
218
220
216
214
212
210
208
89 88 87 86 85 84 83 82 8190
Hình 1.1: Họ Thorium (4n)
Ký hiệu: Phân rã Beta
Phân rã Alpha
7
Hình 1.2: Họ Actinium (4n+3)
92 91 90 89 88 87 86 85 84 83 82 81
235
233
231
229
227
225
223
221
219
217
215
213
211
209
207
8
92 91 90 89 88 87 86 85 84 83 82
238
236
234
232
230
228
226
224
222
220
218
216
214
212
210
208
206
Hình 1.3: Họ Uranium (4n+2)
9
Ngoài các đồng vị phóng xạ trong 4 họ phóng xạ cơ bản trên, trong tự
nhiên còn tồn tại một số đồng vị phóng xạ với số nguyên tử thấp. Các đồng vị
phóng xạ quan trọng nhất được dẫn ra trong bảng 1.1.
Một trong các đồng vị phóng xạ tự nhiên là K40, rất phổ biến trong môi
trường (hàm lượng K trong đất đá là 27g/kg và trong đại dương ~ 380 mg/lit),
trong thực vật, động vật và cơ thể người (hàm lượng K trung bình trong cơ thể
người khoảng 1,7g/kg).
Bảng 1.1: Đặc trưng của 40K và các nhân chính của 3 họ phóng xạ
Nhân Chu kỳ bán hủy Hàm lượng/ Hoạt độ tự nhiên
235U
238U
232Th
226Ra
222Rn
40K
7,04 x 108 năm
4,47 x 109năm
1,41 x 1010 năm
1,6 x 103 năm
3,82 ngày
1,28 x 1010 năm
0,72% uran tự nhiên
99,2745% uran tự nhiên, 0,5-0,7 ppm uran trong đá
1,6-20 ppm trong đá vôi, trung bình 10,7 ppm
16 Bq/kg trong đá vôi, 48 Bq/kg trong đá nóng chảy
0,6 – 28 Bq/m3 trong không khí
Đất: 37-1000 Bq/kg
Đồng vị phóng xạ tự nhiên quan trọng khác là C14 với chu kỳ bán rã 5600
năm. C14 là kết quả của biến đổi hạt nhân do các tia vũ trụ bắn phá hạt nhân N14.
Trước khi xuất hiện bom hạt nhân, hàm lượng tổng cộng của C14 trong khí
quyển khoảng 1,5.1011MBq (4MCi), trong thực vật khoảng 4,8.1011 MBq (13
MCi), trong đại dương khoảng 9.1012 MBq (240 MCi). Việc thử nghiệm vũ khí
hạt nhân làm tăng đáng kể hàm lượng C14. Cho đến năm 1960, tất cả các vụ thử
nghiệm vũ khí hạt nhân đã thải ra khí quyển khoảng 1,1.1011 MBq (3MCi).
Cacbon phóng xạ tồn tại trong khí quyển dưới dạng khí CO2, đi vào cơ thể động
vật qua quá trình hô hấp và vào thực vật qua quá trình quang hợp nên được sử
dụng để đánh giá tuổi các mẫu khảo cổ vật liệu hữu cơ thông qua các số liệu
hoạt độ riêng C14 của chúng.
* Nhóm các đồng vị phóng xạ có nguồn gốc từ vũ trụ:
+ Các đồng vị phóng xạ được tạo thành từ tia vũ trụ:
Bức xạ vũ trụ lan khắp không gian, chúng tồn tại chủ yếu ngoài hệ mặt
trời của chúng ta. Bức xạ có nhiều dạng, từ những hạt nặng có vận tốc rất lớn
10
đến các photon năng lượng cao và các hạt muyon. Tầng trên của khí quyển trái
đất tác dụng với nhiều loại tia vũ trụ và làm sinh ra các nhân phóng xạ. Phần lớn
các nhân phóng xạ này có thời gian bán rã ngắn hơn các nhân phóng xạ tự nhiên
có trên trái đất. Bảng 1.2 trình bày các nhân phóng xạ chính có nguồn gốc từ vũ
trụ.
Bảng1.2: Các đồng vị phóng xạ có nguồn gốc vũ trụ
Nhân T1/2 Nguồn Hoạt độ
14C
3H
7Be
5730 năm
12,3 năm
53,28 ngày
Ttvt 14N(n,p)14C
Ttvt N và O 6Li(n, )3H
Ttvt với N và O
220 Bq/kg trong vật liệu hữu cơ
1,2 x 10-3 Bq/kg
0,01 Bq/kg
(Ttvt: Tương tác vũ trụ)
Các nhân phóng xạ vũ trụ khác là Be10, Al26, Cl36, Kr80, C14, Si32, Ar39,
Na22, S35, Ar37, P32, P33, Mg38, Na24, S38, F18, Cl38, Cl34m.
+ Bức xạ vũ trụ:
Cùng với các nhân phóng xạ tao nên khi tia vũ trụ tương tác với lớp khí
quyển, bản thân các tia vũ trụ cũng góp phần vào tổng liều hấp thụ của con
người. Bức xạ vũ trụ được chia làm hai loại là bức xạ sơ cấp và bức xạ thứ cấp.
Bức xạ vũ trụ sơ cấp được tạo nên bởi các hạt có năng lượng cực kỳ cao
(lên đến 108 Ev), đa phần là proton cùng với một số hạt khác nặng hơn. Phần lớn
các tia vũ trụ sơ cấp đến từ bên ngoài hệ mặt trời của chúng ta và chúng cũng đã
được tìm thấy trong không gian vũ trụ. Một số ít bắt nguồn từ mặt trời do quá
trình cháy sáng của mặt trời.
Một số nhỏ bức xạ vũ trụ sơ cấp xuyên xuống bề mặt trái đất còn phần
lớn chúng tương tác với khí quyển. Khi tương tác với khí quyển, chúng sinh ra
các bức xạ vũ trụ thứ cấp hoặc ánh sáng mà ta có thể nhìn thấy trên mặt đất.
Những phản ứng này làm sinh ra các bức xạ có năng lượng thấp hơn, bao gồm
việc hình thành các photon ánh sáng, các electron, các notron và các hạt muyon
rơi xuống mặt đất.
Lớp khí quyển và từ trường trái đất có tác dụng như một lớp vỏ bọc che
chắn các tia vũ trụ, làm giảm số lượng của chúng có thể đến được bề mặt của
trái đất. Như vậy, liều bức xạ con người nhận được sẽ phụ thuộc vào độ cao mà
11
người ấy đang ở: từ bức xạ vũ trụ, hàng năm con người có thể nhận một liều cỡ
0,27 mSv và sẽ tăng lên gấp đôi nếu độ cao tăng 2000m.
Suất liều điển hình của bức xạ vũ trụ như sau: 0,04 /Gy h trên bề mặt
trái đất, 0,2 /Gy h ở độ cao 5000m và 3 /Gy h ở độ cao 20 000m.
Lượng bức xạ vũ trụ trên mặt biển chỉ giảm 10% từ vùng cực tới xích
đạo nhưng tại độ cao khoảng 20 000m thì mức giảm này là 75%. Rõ ràng là có
sự ảnh hưởng của địa từ trường của trái đất và từ trường của mặt trời lên các
bức xạ vũ trụ sơ cấp.
1.2.1. Các nguồn phóng xạ nhân tạo
Những hoạt động của con người cũng tạo ra các chất phóng xạ được tìm
thấy trong môi trường và cơ thể trong hơn 100 năm trở lại đây và qua đó bổ
sung vào nguồn phóng xạ tự nhiên những sản phẩm của con người. Chúng chỉ là
một lượng rất nhỏ so với lượng phóng xạ có sẵn trong tự nhiên. Vì chu kỳ bán
rã của chúng ngắn nên hoạt độ của chúng đã giảm đáng kể từ khi ngừng thử vũ
khí hạt nhân trên trái đất. Một số chất đã được thải vào khí quyển do các vụ thử
vũ khí hạt nhân và phần nhỏ h