Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định pháp lý của bồi thường dân sự, trong lịch sử pháp luật việc bồi thường dân sự thường được giải quyết bằng phạm trù đạo đức, khi xã hội chưa có nhà nước, chưa có pháp luật vấn đề bồi thường dân sự được giải quyết theo phong tục tập quán của từng bộ tộc người hoặc của từng nhóm người. Khi xã hội phát triển nhà nước và pháp luật ra đời, bồi thường dân sự nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng được điều chỉnh bởi quan hệ pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự thường hết sức da dạng phức tạp, khó giải quyết, khó xác định các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật này, nhưng theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợi đồng khi xảy ra thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại.
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
- Thiệt hại do danh dự nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm
Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho mình nhưng phải theo nguyên tác cơ bản đó là : Phải có thiệt hại xảy ra,người gây ra thiệt hại phải có lỗi,phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Trong thực tế xét xử, Tòa án xác định yếu tố lỗi trong trường hợp này là hết sức phức tạp, thường là lỗi hỗn hợp, do đó tôi chọn đề tài này nhằm nghiên cứu giữa lý luận và thực tiễn để đề tài được sôi động hơn.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 10212 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
&
ĐỀ TÀI
Xác định thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Giáo viên hướng dẫn : Ts Đoàn Đức Lương
Sinh viên thực hiện : Lê Mạnh Long
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định pháp lý của bồi thường dân sự, trong lịch sử pháp luật việc bồi thường dân sự thường được giải quyết bằng phạm trù đạo đức, khi xã hội chưa có nhà nước, chưa có pháp luật vấn đề bồi thường dân sự được giải quyết theo phong tục tập quán của từng bộ tộc người hoặc của từng nhóm người. Khi xã hội phát triển nhà nước và pháp luật ra đời, bồi thường dân sự nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng được điều chỉnh bởi quan hệ pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của bộ luật dân sự thường hết sức da dạng phức tạp, khó giải quyết, khó xác định các chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật này, nhưng theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợi đồng khi xảy ra thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại.
Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Thiệt hại do danh dự nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm
Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho mình nhưng phải theo nguyên tác cơ bản đó là : Phải có thiệt hại xảy ra,người gây ra thiệt hại phải có lỗi,phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Trong thực tế xét xử, Tòa án xác định yếu tố lỗi trong trường hợp này là hết sức phức tạp, thường là lỗi hỗn hợp, do đó tôi chọn đề tài này nhằm nghiên cứu giữa lý luận và thực tiễn để đề tài được sôi động hơn.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Như đã nói ở phần trên, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một phạm trù hết sức phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, do đó tôi chọn đề tài này để đối chiếu so sánh và đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để góp phần vào việc hoàn chỉnh chế định pháp lý của đề tài này.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin,tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,đồng thời nghiên cứu về hiên pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam,quan điểm tư tưởng chỉ đạo của Đảng và pháp luật nhà nướcđể di sâu nghiên cứu một cách đúng đắng,đề tài cũng được nghiên cứu, so sánh luật dân sự Việt Nam thời phong kiến và luật dân sự việt nam hiện đại,để thấy được tính ưu việt của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
4/ Kết cấu đề tài:
1/ Phần mở đầu.
2/ Phần kết luận.
Đề tài gồm có 02 chương:
- Chương1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Chương2: Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
CHƯƠNG I
1.1. Khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định pháp lý bắt buộc người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, cho dù hành vi đó là vô ý hay cố ý,hành vi trái pháp luật đó chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự của người có lỗi. Lịch sử pháp luật Việt Nam trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể khái quát các giai đoạn phát triển như sau :
Giai đoạn thứ nhất: Thời kỳ cổ đại khi mà xã hội chưa có pháp luật để điều chỉnh hành vi của con người thì việc bồi thường thiệt hại thường được giải quyết bằng con đường thương lượng hoặc trả thù hoặc bị bắt làm nô lệ hoặc giải quyết mâu thuẫn đó bằng bạo lực.
Giai đoạn thứ 2: Người gây ra thiệt hại có thể chuột bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị tương đương với thiệt hại xảy ra, khi chưa có sự can thiệp của chính quyền thì các bên tư thõa thuận về tiền chuộc.
Nhờ có sự can thiệp của chính quyền mà các bên trnh chấp buộc phải giải quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau theo lỗi ngạch gía do pháp luật quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc, Tiền thục kim này có thể coi như là một hình phạt. Đồng thời cũng là bồi thường thiệt hại.
Giai đoạn thứ ba : Chính quyền phân biệt hai loại trách nhiệm hình sự và dân sự,trước hết chính quyền can thiệp để trừng trị những tội phạm lien quan đến trật tự xã hội, không liên quan đến cá nhân, sự can thiệp này rất cần thiết. Nếu chính quyền không can thiệp kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân. Sự can thiệp của chính quyền dân dần được nới rộngđến sự phạm pháp liên quan đến quyền lợi của các cá nhân liên quan đến các vụ đánh nhau, trộm cắp.Về phương diện hình sự cac nhân mất hết quyền phục thù và chỉ có quyên xin yêu cầu bồi thường thiệt hại .
Ở Việt Nam, có luật cũng không tách biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại là việc độc lập mà chỉ giải quyết các vấn đề thuộc trật tự công.Vì vậy các điều luật trong bộ luật cổ cũng như bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt luật lệ của Gia Longđều quy định các điều khoản về luật Hình sự.
Ở gian đoạn hiện nay, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định và điều chỉnh bởi luật tục và nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này được dặc ra ở tất cả các nước, Ở Việt Nam bồi thường thiệt hại hiện nay được hiểu là một trách nhiệm dân sự mà người có hành vi gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
1.2. Khái niệm chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo luật dân sự Việt Nam.
Tại điều 604 Bộ luật dân sự quy định: Người nào có lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng trong việc xác định tránh nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phân tích điều luật cho thấy, cơ sở chịu trach nhiệm trong việc bồi thương thiệt hại ngoài hơ đồng khác với quy định người chịu trách nhiệm hình sự. Yếu tố lỗi ở đây có thể là vô ý hay cố ý của người có hành vi gây ra thiệt hại cho người khác đều phát sinh trách nhiệm bồi thường. Còn đối với trách nhiệm hình sự thì người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự thì yếu tố lỗi phải là cố ý mới cấu thành tội phạm.
Xét về mặt lý luận thì nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ dân sự và phải bồi thường tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái niệm nghĩa vụ được quy định tai điều 258 Bộ luật dân sự. Kết hợp điều 258 với điều 609 Bộ luật dân sự có thể định nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trch nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của một người do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
Theo định nghĩa thì việc bồi thường thiệ hại ngoài hợp đồng xảy ra khi các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật không ký kết bất cứ hợp đồng nào. Trách nhiệm bồi thường thiệ hại ngoài hợp đồng thường phát sinh dưới hai trường hợp:
_ Trường hợp thứ nhất: phát sinh từ việc bồi thường thiệt hại từ vụ án hình sự.
_ Trường hợp thứ hai : Pht từ lỗi vô ý mà ngoài sự kiểm sốt của các chủ thể.Ví dụ : Trâu bò nhà ông A ăn lúa nhà ông B trong trường hợp này rõ ràng ông A và ông B không thực hiện giao kết hợp đồng, nhưng nếu ông B yêu cầu ông A bồi thường thí sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường đối với ông A.
Chủ thể trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, hoặc là hộ gia đình, các chủ thể này có thể là nguyên đơn hay bị đơn trong vụ kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,mà tùy từng trườn hợp mà họ phải chịu trách nhiệm riêng rẽ hay chịu trách nhiệm liên đới trong việc bồi thường.
Cơ sở phát sinh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do pháp luật quy định xuất phát từ những nguyên tắc chung của Hiến pháp. Nguyên tắc quy định trong điều luật buộc các chủ thể không được xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nếu xâm phạm do lỗi cố ý hay vô ý thì đều bị pháp luật trùng trị đồng thời bắt buộc phải khắc phục hậu quả hoặc phải bồi thường bằng tiền hoặc vật chất có giá trị tương ứng với thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù những tổn that đã gây ra mà còn giáo dục mọi người phải có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời còn giáo dục mọi người phải có ý thức bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cua nhà nước và của công dn được pháp luật quy định. Vì vậy pháp luật dân sự không thể coi trách nhiệm bồi thường thiệ hại ngoài hợp đồng là việc áp dụng biện pháp hình sự hay hình phạt phụ. Theo quy định của Bộ luật hình sự thí việc phạt tiền là một hình phạt mà Tòa án có thể áp dụng cho người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, còn việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải là một hình phạt mà đây là trach nhiệm bồi thường, cả hai đều cấu thành vật chất nhưng nó được điều chỉnh bởi hai ngành luật khác nhau, hai quan hệ pháp luật khác nhau.
2.Điều kiện của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xác định bồi thường. Các điều kiện phát sinh phải được xem xét một cách tổng thể trên cơ sở thực tế thiệt hại xảy ra, thiệt hai xảy ra phải tuân theo sự thật khách quan, nghĩa là sự việc xảy ra là khách quan trung thực, không được con người làm sai lệch sự thật khách quan đó. Ví dụ: Một tài xế do chở hàng quá tải dẫn đên xe hỏng phanh gây ra tai nạn, như vậy sự thật khách quan của nguyên nhân làm xe mất thắng là do chở quá tải, do đó trong quá trình điều tra xác minh con người không được làm thay đổi sự thật khách quan tức là làm cho việc chở quá tải thành chở không quá tải. Chính vì lẽ đó mà Bộ luật hình sự quy định người nào cố ý làm lệch hồ sơ vu án là vi phạm pháp luật.
Sự thật khách quan là một trong những nguyên tắc cơ bản để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định trong Bộ luật dân sự cũng như việc xác định tội phạm và trách nhiệm bồi thường được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên ngoài sự thật khách quan muốn xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần phải hội tu đủ các điều kiện sau đây:
Có thiệt hại xay ra: Đây là điều kiện đầu tiên để xác định trch nhiệm bồi thường. Thiệt hại ở đây được hiểu là thiệt hại thực tế làm giảm sút những lợi ích vật chất hoặc tinh than được pháp luật bảo vệ, trong thực tế không phải thiệt hại nào cũng tính được bằng tiền mà có những thệt hại không tính được bằng tiền chẳng hạn thiệt haị về tinh thần, nhân phẩm, uy tín, danh dự v.v.
Hành vi gây ra thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật là là cách xủ sự cụ thể của con người được thể hiện thông dua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật. Trong trach nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật, xâm phạm các khách thể được pháp luật bảo vệ, như tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị thiệt hại, như vậy hành vi trái pháp luật có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành vi vi phạm pháp luật dân sự, hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Ví dụ: Đánh người gây thương tích, người bị đánh tỉ lệ thương tật trên 10% hoặc dưới mười phần trăm mà thuộc trường hợp phải bị truy cứu trch nhiệm hình sự. Trường hợp gây thương tích nhưng chưa đến mứ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự. Hành vi của ủy ban nhân dân huyện từ chối không ký cấp bìa đỏ cho đân mà gây thiệt hại thì phải bồi thường đây là hành vi vi phạm hành chính. Việc gây thiệt hại không phải bao giờ cũng phải bồi thường, trong trường hợp người gây thiệt hại xảy ra trong trường hợp phòng vệ chính đáng hay gây thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng thi không coi là vi phạm pháp luật, trong trường hợp phòng vệ chính đáng thì cân phải xem xet hành vi phòng vệ có tương xưng hay không, trong trường hợp này cần xem xét theo chế định phòng vệ chính đáng được quy dịnh trong Bộ luật hình sự, nếu quá trình xem xét đánh giá chứng cứ mà hành vi gây thiệt hại mà vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì cững chịu trách nhiệm bồi thường.
Mọi hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị pháp luật trừng trị và buộc phải bồi thường, hành vi trái pháp luật có thể ở dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ví dụ: không hành động cứu người đang trong tình trạng nguy kịch có thể dẫn đến hậu quả người đó chết trong khi người vi phạm có điều kiện để cứu họ, đây là hành vi không hành động phạm tội.
Phải có mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra: Hậu quả của thiệt hại xảy ra phải do hành vi trái pháp luật của người vi phạm gây ra,thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu do hành vi trái pháp luật tuân theo sự thật khách quan. Nếu trong quá trình đánh giá chứng cứ không xác định được mối liên hệ nhân quả thì không coi là vi phạm, đây là mối liên hệ nội tại và nguyên nhân là cái luôn diễn ra trước hậu quả trong một thời gian nhất định, khi xác định nguyên nhân gây thiệt hại cần phải xác định nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp để làm cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường hặc các định tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trong vụ án hình sự.
Nói tóm lại các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải phải hội tụ đủ bốn điều kiện sau:
- Phải có thiệt hại xảy ra
- Phải có hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại.
- Người gây thiệt hại phải có lỗi dù là lỗi cố ý hay vô ý.
- Phải có mối lien hệ giữa hnh vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra.
Việc xác định trách nhiệm bồi thường bắt buộc phải xem xét đến bốn yếu tố cấu thành, nhưng yếu tố quan trọng nhất để xem xét mức đọ bồi thường cần phải đánh giá yếu tố lỗi là cơ bản nhất, nếu hành vi gây thiệt hại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà giải quyết bằng vụ kiện dân sựu, thì yếu tố lỗi là cắn cứ để xác định mức bồi thường, nếu hành vi gây thiệt hại đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì yếu tố lỗi cũng được xem xét khi quyết định hình phạt và trách nhiệm bồi thường. Ví dụ A là tên thường xuyên ăn trộm tài sản của người khác,vào ngày 20 tháng 11 năm 2009 lợi dụng ngày nhà giáo Việt Nam, A dột nhập vào nhà thầy giáo Trần văn N để cướp tài sản, trong khi A đột nhập vào nhà gặp phải sự kháng cự của thầy giáo N, A liền rút giao mang sẵn trong người chm liên tiếp nhiều nhát vào người thầy giáo N, thầy giáo N giật lấy được con giao từ tay A và chém lại A nhiều nhát, gây thương tích cho A. Tại Bản án số 23/HS-ST ngày 12/2/2011 của Tòa án nhân dân Huyện B tuyên phạt Trần văn N 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 12 tháng,qua vụ án này nhận thấy rằng, thầy giáo N không phải phòng vệ chính đáng, bỡi lẽ: Khi thầy giáo N giật được con giao từ tay của A, như vậy lúc bấy giờ A không còn khả năng tấn công N nữa, nhưng nếu A tiếp tục tấn công N bằng tay không thì hành vi đó không nguy hiểm bằng khi A tấn công có hung khí nguy hiểm, như vậy, khi N chém lại A rõ ràng N không phải phòng vệ chính đáng, mà lẽ ra N không được chém A khi tước được con giao từ tay A, như vậy N phạm tội trong trương hợp tinh thần bị kích động mạnh, do đó Tòa án căn cứ vào yếu tố lỗi mà xử phạt N 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp.Về phần bồi thường dấn sự Tòa án cũng xem xét đến yếu tố lõi mà giảm cho N một phần bồi thường. Tóm lại khi giải quyết vấn đề bồi thường thiêt hại ngoài hợp đồng cần phải xem xét đến yếu tố lỗi thậy thận trong mới giải quyêt vụ an được cong bằng và đúng pháp luật.
2.2 Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
a. Nguyên tắc các bên đương sự thỏa thuận được Tòa án chấp nhận.
b. Trong trường hợp các bên dương sự không thõa thuận dược thì Tòa án xem xét quyết định, nhưng khi quyết định cần phải xem xét điều kiện kinh tế của người gây ra thiệt hại, xem xét đến vấn đề giá cả tại địa phương tại thời điểm xét xử mà cĩ phán quyết sao cho phù hợp.
2.3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường.
Chủ thê chịu trách nhiệm bồi thương là: Bất kỳ ai, trừ trường hợp những người pháp luật quy định không chịu trach nhiệm bồi thường như : người mất năng lự hành vi, người chưa đủ tuổi chịu trch nhiệm bồi thường v.v.
Người đủ tuổi thành niên một phần nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình, trong trường hợp tài sản của người này không đủ thì cha mệ phải bồi thường.
Người chưa thành niên gây thiệt hại, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì người được giám hộ phải bồi thường, trong trường hợp người được giám hộ không đủ tài sản hoặc không có khả năng bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG.
Vấn đề về trách nhiệm bồi thường trong bồi thường.
Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trch nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm bồi thường trách nhiệm ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, uy tín , danh dự, nhân phẩm, tài sản của các cá nhân tổ chức khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Căn cứ vào lợi ích bị xâm phạm và những thiệt hại xẩy ra mà trách nhiệm bồi thường được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bù đắp về tinh thần.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường tổn thất về vật chất thực tế được tính bằng tiền do bn vi phạm gy ra, bao gồm tổn thất về ti sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu thập thực tế đ mất hoặc bị giảm st.
Trch nhiệm bồi thường thiêt hại về tinh thần được hiểu là người gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngồi việc chấm dứt hnh vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai cịn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, long đau thương…
Việc phn biệt hai loại trch nhiệm ny cĩ ý nghĩa trong việc xc định nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xẩy ra v mức bồi thường: Về nguyên tắc người bị thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xẩy ra va mức bồi thường sẽ bằng mức thiệt hại. Tuy nhiên nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đ l trch nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất cịn trong trường bồi thường thiệt hại về tinh thần thì r rng những tổn thất về tinh thần l những tổn thất l khơng thể nhìn thấy, không thể tính toán và không thể chứng minh được chính vì vậy trong trường hợp này pháp luật cần quy định một mức nhất định dể cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp một người có hành vi xâm phạm đến các quyền nhân thân của người khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân chia thành chách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra v trch nhiệm bồi thiệt hại do ti sản gy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xẩy ra là kết quả tất yếu của hành vi con người gây ra. Trường hợp này người gây thiệt hại đ thực hiện hnh vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi tài sản chính là nguyên nhân gây ra thiệt hại khi hoạt động của những nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà c