Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp đã mang lại nhiều thành 
tựu to lớn trong đó quan trọng nhất là giảm tỷ lệ đói nghèo trên thế giới nhờ nâng cao 
năng suất cây trồng. Mặc dù thuốc bảo vệ thực vật giúp giảm tổn thất do sâu hại (ước 
tính mức độ tổn thất do sâu hại nếu không sử dụng thuốc trừ sâu là 83 % ở lúa gạo và 
84 % ở bông vải (Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, 2004)) song thuốc trừ sâu cũng 
mang lại những bất lợi khó giải quyết như: ô nhiễm môi trường, độc hại cho sức khỏe 
con người, mất cân bằng sinh thái và gây tính kháng của côn trùng. Trong những năm 
gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học, các nhà khoa học tập 
trung nghiên cứu tạo ra các cây trồng chuyển gen mang tính kháng, xem các giống 
kháng là thành phần chủ yếu trong hệ thống phòng trừ tổng hợp. Tuy nhiên, những gen 
dùng trong công nghệ chuyển gen còn ít, chuyển gen tỷ lệ thành công thấp và vẫn còn 
tồn tại những tranh cãi về tính an toàn của cây chuyển gen nên thuốc trừ sâu vi s inh 
được coi là giải pháp khả thi, có thể đáp ứng nhanh yêu cầu của con người về một giải 
pháp phòng trừ sâu hại an toàn môi sinh và hiệu quả, giúp hạn chế sử dụng thuốc trừ 
sâu hóa học. Thuốc trừ sâu vi sinh gồm các sản phẩm từ các loài thiên địch của sâu
như: các loài ăn mồi, ký sinh, nguồn bệnh, trong đó các chế phẩm tạo nên trên cơ sở 
các loài nấm chiếm vị trí quan trọng, đặc biệt chế phẩm nấm diệt sâu từ nấm 
Beauveria bassiana đã có hiệu lực cao tiêu diệt nhiều loài côn trùng gây hại. Để nâng 
cao hiệu quả ứng dụng của nấm này, cần đẩy mạnh các nghiên cứu về sinh học, sinh 
lý, sinh thái và mối quan hệ giữa nấm Beauveria bassiana với côn trùng vật chủ. 
Trong đó, nhiệm vụ trung tâm của công nghệ sinh học hiện nay khi nghiên cứu các đối 
tượng là đọc được chuỗi mã DNA để phân tích bộ genome nhằm tìm hiểu quan hệ di 
truyền của các đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ giữa genome với tính độc của nấm 
nhằm tạo ra các chế phẩm vi nấm có hiệu quả diệt côn trùng cao. Trong phạm vi 
nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đọc trình tự vùng ITS1 - 5,8 S - ITS2 của rDNA
để so sánh sự biến đổi trong trình tự giữa các chủng nấm Beauveria bassiana.
2
1.2. Mục tiêu đề tài
Khuếch đại vùng gen ITS1 - 5,8 S - ITS2 các nguồn nấm Beauveria basiana có 
tính độc cao và đọc trình tự sản phẩm PCR của nấm làm cơ sở xác định mối liên hệ 
giữa tính độc của nấm với những biến đổi trong trình tự vùng ITS - rDNA
1.3. Yêu cầu
Nắm vững nguyên tắc nuôi cấy và nhân sinh khối nấm.
Nắm vững kỹ thuật PCR
Nắm vững nguyên tắc đọc trình tự.
1.4. Nội dung thực hiện
Phân lập thêm một số dòng nấm Beauveria bassiana ký sinh trên côn trùng.
Khuếch đại vùng gen ITS1 - 5,8 S - ITS2 của các dòng nấm có tính độc cao.
Đọc trình tự vùng gen ITS1 - 5,8 S - ITS2 trực tiếp từ sản phẩm PCR và tiến 
hành so sánh với cơ sở dữ liệu của NCBI.
3
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 62 trang
62 trang | 
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3821 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định trình tự vùng ITS - RDNA của nấm Beauveria bassiana Vuille ký sinh trên côn trùng gây hại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
 Phần I. MỞ ĐẦU 
1.1. Đặt vấn đề 
 Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp đã mang lại nhiều thành 
tựu to lớn trong đó quan trọng nhất là giảm tỷ lệ đói nghèo trên thế giới nhờ nâng cao 
năng suất cây trồng. Mặc dù thuốc bảo vệ thực vật giúp giảm tổn thất do sâu hại (ước 
tính mức độ tổn thất do sâu hại nếu không sử dụng thuốc trừ sâu là 83 % ở lúa gạo và 
84 % ở bông vải (Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, 2004)) song thuốc trừ sâu cũng 
mang lại những bất lợi khó giải quyết như: ô nhiễm môi trường, độc hại cho sức khỏe 
con người, mất cân bằng sinh thái và gây tính kháng của côn trùng. Trong những năm 
gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học, các nhà khoa học tập 
trung nghiên cứu tạo ra các cây trồng chuyển gen mang tính kháng, xem các giống 
kháng là thành phần chủ yếu trong hệ thống phòng trừ tổng hợp. Tuy nhiên, những gen 
dùng trong công nghệ chuyển gen còn ít, chuyển gen tỷ lệ thành công thấp và vẫn còn 
tồn tại những tranh cãi về tính an toàn của cây chuyển gen nên thuốc trừ sâu vi sinh 
được coi là giải pháp khả thi, có thể đáp ứng nhanh yêu cầu của con người về một giải 
pháp phòng trừ sâu hại an toàn môi sinh và hiệu quả, giúp hạn chế sử dụng thuốc trừ 
sâu hóa học. Thuốc trừ sâu vi sinh gồm các sản phẩm từ các loài thiên địch của sâu 
như: các loài ăn mồi, ký sinh, nguồn bệnh, trong đó các chế phẩm tạo nên trên cơ sở 
các loài nấm chiếm vị trí quan trọng, đặc biệt chế phẩm nấm diệt sâu từ nấm 
Beauveria bassiana đã có hiệu lực cao tiêu diệt nhiều loài côn trùng gây hại. Để nâng 
cao hiệu quả ứng dụng của nấm này, cần đẩy mạnh các nghiên cứu về sinh học, sinh 
lý, sinh thái và mối quan hệ giữa nấm Beauveria bassiana với côn trùng vật chủ. 
Trong đó, nhiệm vụ trung tâm của công nghệ sinh học hiện nay khi nghiên cứu các đối 
tượng là đọc được chuỗi mã DNA để phân tích bộ genome nhằm tìm hiểu quan hệ di 
truyền của các đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ giữa genome với tính độc của nấm 
nhằm tạo ra các chế phẩm vi nấm có hiệu quả diệt côn trùng cao. Trong phạm vi 
nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đọc trình tự vùng ITS1 - 5,8 S - ITS2 của rDNA 
để so sánh sự biến đổi trong trình tự giữa các chủng nấm Beauveria bassiana. 
 2 
1.2. Mục tiêu đề tài 
 Khuếch đại vùng gen ITS1 - 5,8 S - ITS2 các nguồn nấm Beauveria basiana có 
tính độc cao và đọc trình tự sản phẩm PCR của nấm làm cơ sở xác định mối liên hệ 
giữa tính độc của nấm với những biến đổi trong trình tự vùng ITS - rDNA 
1.3. Yêu cầu 
 Nắm vững nguyên tắc nuôi cấy và nhân sinh khối nấm. 
 Nắm vững kỹ thuật PCR 
 Nắm vững nguyên tắc đọc trình tự. 
1.4. Nội dung thực hiện 
 Phân lập thêm một số dòng nấm Beauveria bassiana ký sinh trên côn trùng. 
 Khuếch đại vùng gen ITS1 - 5,8 S - ITS2 của các dòng nấm có tính độc cao. 
 Đọc trình tự vùng gen ITS1 - 5,8 S - ITS2 trực tiếp từ sản phẩm PCR và tiến 
hành so sánh với cơ sở dữ liệu của NCBI. 
 3 
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
2.1. Giới thiệu về nấm Beauveria bassiana 
2.1.1. Vị trí phân loại 
 Lớp: Deuteromycetes. 
 Bộ: Moniliales. 
 Họ: Moniliaceae. 
 Giống: Beauveria. 
 Giống Beauveria thường được chia thành 3 loài: Beauveria bassiana, 
Beauveria brongniarti, Beauveria alba, trong đó 2 loài đầu là tác nhân gây bệnh côn 
trùng (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
2.1.2. Đặc điểm hình thái 
 Theo Nguyễn Ngọc Tú - Nguyễn Cửu Thị Hương Giang (1997), “Nấm 
Beauveria bassiana có bào tử trần hình cầu (đường kính 1 - 4 m) đến hình trứng (1,5-
5,5 x 1,3 m). Sợi nấm có chiều ngang khoảng 3 - 5 m phát triển dày đặt trên môi 
trường, mang nhiều cuống sinh bào tử và bào tử. Mặt khuẩn lạc nấm dạng phấn trắng.” 
Nấm khi mọc trên côn trùng thường có màu trắng hoặc vàng nhạt, đôi khi hơi sẫm, bề 
mặt trơn và có nhiều bột, hiếm khi tập hợp thành bó sợi. 
 Khi mọc trên môi trường thạch, nấm Beauveria bassiana nhìn chung có màu 
trắng, viền khuẩn lạc thường có màu kem hoặc vàng nhạt, thỉnh thoảng có màu đỏ nhạt 
(Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
 Beauveria bassiana tạo rất nhiều bào tử, bào tử thường có hình cầu, hình trứng, 
có khi chiều dài lên tới 20 m với 1 m chiều rộng. Các sợi nấm khí sinh mang các giá 
bào tử trần ngắn, phồng to 3 - 5 x 3 - 6 m. Các giá bào tử này hoặc tạo thành các 
nhánh ở phần ngọn, hoặc trực tiếp tạo thành các tế bào sinh bào tử trần. Các tế bào 
sinh bào tử trần thành cụm, được tạo thành từ giá hoặc từ nhánh của giá, hoặc được tạo 
thành trực tiếp từ sợi nấm khí sinh hay từ nhánh ngang và ngắn của các sợi nấm này. 
Phần gốc của tế bào sinh bào tử trần hình cầu, hình chai 2,5 - 3,5 x 3 - 6 m, phần 
ngọn của tế bào dạng cuống hẹp, ngoằn ngoèo hình chữ chi, hoặc ngoằn ngoèo không 
 4 
đều, có răng cưa 1 x 5 - 20 m. Bào tử trần không có vách ngăn, hình cầu hoặc elip, 
đôi khi có gốc nhọn, nhẵn 2 – 3 x 2 – 4 m, màu trắng hay vàng nhạt (Nguyễn Ngọc 
Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
2.1.3. Đặc điểm nuôi cấy 
2.1.3.1. Môi trƣờng nuôi cấy 
 Do có hệ enzyme phong phú (lipase, protease, urease, aspatainase, amylase) 
nên nấm này có khả năng phát triển trên nhiều loại môi trường dinh dưỡng với các 
thành phần khác nhau. Trong đó môi trường thạch khoai tây hay được sử dụng và khả 
năng phát triển của nấm trên môi trường này là tốt nhất (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn 
Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
2.1.3.2. Điều kiện nhiệt độ 
 Nhiệt độ đóng vai trò quan trọng, hầu như ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động 
sống của nấm, mỗi loại nấm chỉ có khả năng phát triển trong một giới hạn nhiệt độ 
nhất định. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự nảy mầm, phát triển và tạo bào tử của nấm 
Beauveria bassiana là 25 – 30oC (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 
1997). 
2.1.3.3. Điều kiện pH 
 Theo Veliska (1967), giá trị pH môi trường từ 3 - 9 không ảnh hưởng tới sự 
phát triển tạo sinh khối của nấm Beauveria bassiana và theo Goral (1970) nấm 
Beauveria bassiana thuộc vi sinh vật có khả năng điều chỉnh pH môi trường, pH thuận 
lợi cho sự phát triển là 5,7 - 6,0. Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu cho rằng khả năng phát 
triển tốt nhất của nấm Beauveria bassiana là 6,2 - 6,3 (trích dẫn bởi Nguyễn Ngọc Tú 
và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
2.1.4. Điều kiện phân bố 
 Nấm Beauveria bassiana phân bố rộng khắp. Giống như hầu hết các loại nấm 
diệt sâu khác, khi rơi vào một nơi nào đó, chúng đều có khả năng trở thành thành viên 
trong sinh quần nơi đó và tự sinh sôi nảy nở tăng lên. Vì là vật ký sinh chuyên hóa 
 5 
rộng nên nấm này có khả năng tồn tại khi thiếu vật chủ chính. Khả năng nhiễm thành 
công của nấm với côn trùng là khá lớn vì chúng có nhiều cách xâm nhiễm khác nhau: 
qua lớp cutin, qua đường tiêu hóa, qua đường hô hấp và qua lỗ của thân. Ngoài ra, nấm 
Beauveria bassiana còn có khả năng tồn tại trong điều kiện môi trường không thuận 
lợi dưới dạng giả hạch nấm (các sợi nấm dinh dưỡng kết lại thành một thể rắn chắc). 
Có thể sử dụng rộng rãi nấm Beauveria bassiana trong thực tiễn nông nghiệp vì: 
chúng có thể phát triển trên môi trường dinh dưỡng, có thể được chế tạo ở dạng chế 
phẩm sinh học, và tiêu diệt một lượng không nhiều các côn trùng có ích (Nguyễn Ngọc 
Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
 Nấm Beauveria bassiana có khả năng phát tán rộng trong thiên nhiên thông qua 
các hoạt động phóng bào tử bằng cơ học (chúng có có khả năng bắn bào tử tới khoảng 
cách gấp hàng nghìn lần lớn hơn kích thước của chúng), lan truyền nhờ dòng nước, 
không khí và côn trùng (một số loài của bộ Collembola, như Lepidocyrtus giúp nấm 
Beauveria bassiana di chuyển khá xa) (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương 
Giang, 1997). 
2.1.5. Độc tố của nấm Beauveria bassiana 
 Chất diệt côn trùng của nấm Beauveria bassiana là chất chúng tiết ra khi bào tử 
nảy mầm. Tên thông thường của độc tố là beauverixin, công thức hóa học C45H57O9N3 
- ciclo (N - metyl - L - phenylalanin - D - - hydroxyizovalery)3. Đó là một loại 
depxipeptit vòng có điểm sôi 93 - 94oC (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương 
Giang, 1997). 
 6 
Hình 2.1 Cấu trúc phân tử của beauvericin (F. R. Champlin, 1979) 
 Tiến trình cấy chuyền Beauveria bassiana qua côn trùng vật chủ sống thì nồng 
độ độc tố tạo thành tăng hơn so với Beauveria bassiana phân lập giữ trên môi trường 
tổng hợp. Ngoài ra, nồng độ độc tố cao nhất với sâu được tạo thành khi nấm được nuôi 
cấy trên chính sâu này. Như vậy, nguồn dinh dưỡng của nấm có ý nghĩa đối với sự 
hình thành độc tố chuyên hóa (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 
1997). 
 Ngoài ra, mô côn trùng bị nhiễm nấm thì bền vững dưới tác dụng của vi sinh 
vật gây thối rữa chứng tỏ nấm này có khả năng tạo ra một số chất trao đổi giống kháng 
sinh. Evlachova (1970) đã nghiên cứu tính chất kháng khuẩn của một số nòi nấm 
Beauveria bassiana và kết luận rằng phổ diệt khuẩn của chúng khá rộng. Tính chất này 
rất có ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất (trích dẫn Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị 
Hương Giang, 1997). 
2.1.6. Quá trình nhiễm nấm vào côn trùng 
2.1.6.1. Sự xâm nhập 
 Các nấm diệt sâu xâm nhập vào cơ thể côn trùng qua toàn bộ vỏ cutincun ngoài 
nhờ enzyme phân hủy lớp chitin của cutincun (Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị 
Hương Giang, 1997). 
 Theo Robinson R.K. (1996), sự xâm nhập của nấm diệt sâu qua lớp cutincun 
ngoài được thực hiện bằng lực cơ học, còn sự tiến sâu vào lớp cutincun trong thì được 
thực hiện nhờ họat động của enzyme do chính nấm tiết ra. Ngoài ra, Robinson R.K. 
 7 
cũng xác nhận rằng các nấm diệt sâu chuyên hóa cao tạo nên trên bề mặt cutincun một 
kiểu giác bám phồng lên dạng kim xuyên vào bên trong cuticun của côn trùng. Sự xâm 
nhập vào xoang thân côn trùng xảy ra khá nhanh chóng, qua 32 - 48 giờ đã làm đầy cơ 
thể côn trùng với những đoạn sợi nấm đơn bào tự do bơi trong huyết tương dẫn đến sự 
phá hủy tiếp theo mô thân côn trùng (trích dẫn Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị 
Hương Giang, 1997). 
2.1.6.2. Sự phát triển của nấm tới khi côn trùng chết 
 Theo Sekhurina J. A. (1964), khi các bào tử chồi của nấm Beauveria bassiana 
bắt đầu sinh sôi nảy nở trong huyết tương của bọ rùa thì bọ rùa bắt đầu tê liệt, và sau 
khi vật chủ chết thì nấm mọc thành sợi nấm chui vào trong các bắp cơ và khí quản của 
côn trùng; các chế phẩm mô bệnh lý nhuộm cho thấy hạch thần kinh bị biến đổi màu 
do ảnh hưởng của độc tố (ở giai đoạn đầu của bệnh tê liệt các hạch thần kinh có màu 
xanh tím, khi bị nấm ký sinh có màu xanh đỏ đậm trong khi đó màu của hạch thần 
kinh ở côn trùng khỏe có màu xanh lá cây) (trích dẫn Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn 
Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
Hình 2.2 Quá trình nhiễm nấm vào côn trùng (Scholte E-J, 2004) 
2.1.7. Triệu chứng của côn trùng nhiễm nấm 
 A: sự xâm nhập. 
 B: lớp cutin. 
 C: sợi nấm phát triển. 
 D: sợi nấm hình thành 
vách ngăn. 
 E: túi bào tử hình thành. 
 F: bào tử động. 
 G: bào tử noãn. 
 8 
 Nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng của nấm có lợi lên các đối tượng côn 
trùng khác nhau đã đưa ra các kết quả mô tả triệu chứng khác nhau: 
 Làm biến đổi thành phần, hình dạng các nguyên tố enzyme và phản ứng huyết 
tương, làm giảm khả năng sinh sản, làm giảm trọng lượng, phá hủy sự hô hấp và phá 
hủy chức năng hệ thống nội tiết của côn trùng. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của nấm 
Beauveria bassiana lên độ mắn đẻ của bướm Torticidae hại táo, Kondria V.S (1966) 
đã đưa ra kết luận rằng việc xử lý nhộng bởi nấm này làm giảm độ mắn đẻ của bướm 
rất nhiều. Trong các thí nghiệm nhiễm 5000, 15000, 45000 bào tử nấm Beauveria 
bassiana lên các con cái thì số lượng trứng trung bình còn lại không bị hư lần lượt là 
59, 47 và 29 so với đối chứng là 71 trứng. Zagae (1963) cho biết độ mắn đẻ của các 
con cái bọ cánh cứng nhiễm Beauveria bassiana đã giảm tới 48 % so với đối chứng và 
nếu kết hợp với DDT sẽ giảm tới 83 % (trích dẫn bởi Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn 
Cửu Thị Hương Giang). 
 Phá hủy chức năng sinh lý của côn trùng. Theo Ferron P. (1967) thì sự nhiễm 
nấm trắng và nấm xanh trên sâu Melolontha melolontha sẽ gây ra hiện tượng biến đổi 
sinh hóa và giảm lực oxy hóa khử dẫn tới tình trạng hóa melanin trong huyết tương. 
Ngoài ra, công trình nghiên cứu của Codaira (1967) cho thấy sự nhiễm nấm vào côn 
trùng còn làm thay đổi độ nhớt của huyết tương. Một số các nhà nghiên cứu khác 
(Dieuzeide R. 1926, Cordon T.C và Schwartz J.H. 1962) còn thấy các tinh thể được 
tạo thành trong huyết tương khi côn trùng bị nhiễm nấm (trích dẫn bởi Nguyễn Ngọc 
Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang). 
 Phá hủy quá trình biến thái và phát triển của côn trùng, cụ thể là các ấu trùng bị 
nhiễm nấm không lột xác được (Benz G., 1963). Theo Gosswald K. (1938), nấm 
Beauveria bassiana có thể nhiễm tất cả các pha phát triển của Bombyx mori. Theo 
Prasertphon (1967), khi nấm B. bassiana nhiễm vào ấu trùng tuổi 4 và 5 của bọ rùa 
gây hại thì biểu hiện của ấu trùng bị phá hủy như sau: ấu trùng và rệp non không thể 
thoát ra khỏi tầng cutincun cứng và ở mức độ cao hơn thì côn trùng có dạng gù quái dị 
(trích dẫn Nguyễn Ngọc Tú và Nguyễn Cửu Thị Hương Giang, 1997). 
2.1.8. Các chể phẩm sinh học từ nấm Beauveria bassiana 
 9 
 Theo danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam (quyết 
định số 15/2004/QD – BNN ngày 14 tháng 4 năm 2004, các loại chế phẩm nấm 
Beauveria bassiana được phép sử dụng gồm có: 
 Boverit 5,0 x 10
8
 bào tử/g (Viện Bảo vệ Thực vật) trừ rầy nâu hại lúa, sâu đo 
xanh hại đay, sâu róm hại thông, sâu kèn hại tai tượng. 
 Biovip 1,5 x 10
9 bào tử/g (Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long) trừ rầy và bọ xít 
hại lúa. 
 Beauverine (Công ty Thanh Sơn Hóa Nông) trừ sâu tơ hại bắp cải, sâu đục quả 
hại xoài. 
 Muskardin (Công ty cổ phần thuốc trừ sâu Cần Thơ) trừ sâu đục thân hại lúa và 
ngô. 
 Bermetent (Công ty hợp danh sinh học nông nghiệp Sinh Thành, Thành phố Hồ 
Chí Minh), trừ bọ cánh cứng hại dừa, sâu đục thân, rệp sáp, rầy đen hại mía. 
2.2. Tổng quan về ITS - rDNA 
2.2.1. Giới thiệu về rDNA và vùng ITS 
 rDNA là nhóm gen mã hóa rRNA của ribosom, đóng vai trò quan trọng trong 
các nghiên cứu quan hệ phát sinh loài. rDNA được quan tâm nghiên cứu vì nó là một 
gen có nhiều bản sao và đặc biệt không mã hóa cho protein nào. Các bản sao của gen 
nằm liên tiếp trên một locus và liên quan mật thiết tới quá trình tiến hóa. Hơn nữa, 
ribosom hầu như tồn tại trong mọi sinh vật và có cùng nguồn gốc tiến hóa. Phần lớn 
phân tử rDNA tương đối bảo tồn nên được xem là cơ sở để tìm ra sự tương đồng và 
các khác biệt khi so sánh các sinh vật khác nhau. Các primer thiết kế dựa trên những 
oligonucleotide có tính bảo tồn cao được sử dụng cho tất cả sinh vật nhằm khuếch đại 
các vùng tương đương dùng trong so sánh. Ngoài ra, nhiều primer và probe cũng được 
thiết kế dựa trên các vùng không bảo tồn dùng trong phát hiện và định danh vi sinh vật 
(Van de Peer và cộng sự, 1996). 
 Các rDNA 5,8 S, 18 S, và 25 S phiên mã thành các tiền rRNA riêng rẽ, nằm xen 
kẽ với các vùng phiên mã bên trong (ITS) và các vùng phiên mã bên ngoài (ETS). 
Giữa các nhóm gen gồm nhiều bản sao lập lại là vùng không phiên mã. Có một rDNA 
5 S thường không có vị trí cố định và có chiều sao mã ngược với các gen còn lại, 
rDNA 5 S thường chỉ có ở nhân, không có ở ty thể của một số loài nấm. Kích thước 
của mỗi vùng lập lại nằm trong khoảng 7,7 – 24 kbp (Guarro, 1999). 
 10 
Hình 2.3 Sơ đồ nhóm gen rDNA nhân và rDNA ty thể (White và cộng sự, 1989) 
 rDNA 18 S thường được quan tâm nghiên cứu; rDNA 5,8 S có kích thước rất 
nhỏ và ít có sự biến đổi song rRNA 5 S là thành phần không thể thiếu của nu - LSU-
rRNA, có vai trò ổn định cấu trúc ribosom và thúc đẩy quá trình tổng hợp protein 
(Szymanski và cộng sự, 2001); rDNA 25 S mặc dù ít có sự biến đổi song lại rất có ý 
nghĩa trong phân loại (Guarro, 1999). 
 Vùng ITS là vùng có rất nhiều sự biến đổi, mặc dù vùng ITS thường được sử 
dụng trong nghiên cứu tiến hóa của vi sinh tuy nhiên phần lớn các so sánh trên vùng 
này chỉ thường sử dụng ở mức độ xác định các biệt hóa trong cùng loài (Guarro, 
1999). 
2.2.2. Phân nhóm rDNA 
 Theo White và cộng sự (1989), rDNA có thể chia thành 2 nhóm: rDNA nhân 
và rDNA ty thể. 
 rDNA nhân 
 rDNA nhân (nu - rDNA) gồm có nu - SSU - rDNA (17 - 18 S) mã hóa rRNA 
tiểu đơn vị nhỏ (small subunit rDNA) và nu - LSU - rDNA (26 - 28 S) mã hóa rRNA 
tiểu đơn vị lớn (large subunit rDNA). 
 Nu - SSU - rDNA tiến hóa tương đối chậm, thường được sử dụng trong nghiên 
cứu các sinh vật có ít quan hệ về mặt di truyền. Nu - LSU - rDNA mặc dù có ít vùng 
 11 
biến đổi nhưng lại rất có ý nghĩa trong nghiên cứu so sánh và phân loại ở nhiều cấp độ 
(Guarro, 1999). 
 rDNA ty thể 
 rDNA ty thể (mt - rDNA) cũng gồm có hai loại: mt - SSU - rDNA (19 S) và mt 
- LSU - rDNA. Các mt - rDNA tiến hóa khá nhanh, thường được sử dụng trong nghiên 
cứu các sinh vật cùng họ (Yamamoto và cộng sự, 1995). 
 Theo nghiên cứu của Santos và cộng sự (2002), ở các loài sinh vật có lạp thể, 
rDNA của lạp thể (cp - rDNA) cũng rất thay đổi về kích thước giữa các loài. Nghiên 
cứu cũng kết luận rằng cp - LSU - rDNA (23 S) có sự thay đổi lớn về kích thước trong 
các loài sinh vật có lạp thể, cp - SSU - rDNA (16 S) thường ít được sử dụng trong 
nghiên cứu vì nó có đặc tính phái sinh. 
2.2.3. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu rDNA 
 rDNA được quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Bằng cách tách gen, nhân dòng và 
đọc trình tự, người ta đã đọc được rất nhiều trình tự rDNA. Đặc biệt, phương pháp đọc 
trình tự trực tiếp sản phẩm PCR ra đời tạo rất nhiều thuận lợi cho các nghiên cứu liên 
quan đến rDNA (White và cộng sự, 1989). 
 Năm 1984, Hassouna và cộng sự đã giải trình tự toàn bộ gen mã hóa 28 S 
rRNA trên chuột và phát hiện có gia tăng kích thước của gen này ở các sinh vật 
eukaryote bậc cao. 
 Năm 1985, Hasegawa và cộng sự dựa trên trình tự rDNA nghiên cứu mối quan 
hệ phát sinh loài của giới eukaryote. 
 Field và cộng sự (1988) là những người đầu tiên đề nghị nghiên cứu rDNA để 
xác định mối quan hệ trong phát sinh loài của động vật đa bào. Đặc biệt, rDNA nhân 
mã hóa rRNA 18 S được xem là đủ đa dạng có thể giải quyết nhiều vấn đề liên quan 
đến lịch sử phát sinh động vật đa bào (Halanych và Kenneth M., 1998). 
 Năm 1989, Gams và cộng sự sử dụng phương pháp PCR - RFLP thay vì đọc 
trình tự khi nghiên cứu rDNA. 
 Năm 1990, Palmer và cộng sự đã so sánh trình tự SSU - rDNA của nhân, ty thể 
và lục lạp của thực vật hạt kín và thấy rằng trình tự rDNA 18 S của nhân là có nhiều 
 12 
biến đổi nhất. Cũng trong năm này, Devereux và cộng sự lần đầu tiên chú ý tới những 
tương đồng trong trình tự 16 S của vi khuẩn khi nghiên cứu phân loại. 
 Các nghiên cứu sinh học phân tử nhằm phân loại nấm trên cơ sở rDNA được 
phát triển những năm đầu của thập niên 90 (Bruns và cộng sự, 1991; ). So sánh những 
thay đổi của nu - SSU - rDNA (18 S), Bruns và cộng sự (1992) đã tìm được quan hệ di 
truyền của nhiều loài nấm sợi. 
 Năm 1994, Gutell đã tổng hợp những biến đổi trong cấu trúc bậc hai của rRNA 
16 S từ các đại diện thuộc giới cổ vi khuẩn, vi khuẩn và eukaryote trên cả nhân, ty thể 
và lạp thể. 
 Các nghiên cứu phát sinh loài thực vật dựa trên vùng ITS được tiến hành bởi 
Baldwin và cộng sự (1995). 
 Những năm gần đây, ngoài ý nghĩa phân loại, rDNA và vùng ITS rất được quan 
tâm nghiên cứu ở cấp độ phân tử. Năm 1998, Chilton và cộng sự chứng minh cấu trúc 
ITS2 bậc hai có sự tương đồng giữa các họ phụ của lớp giun tròn. Năm 1999, Joseph 
và cộng sự đã chứng minh vùng trung tâm trong cấu trúc ITS2 bậc 2 của động vật có 
xương sống và nấm men có nhiều điểm tương đồng. Năm 2004, Colette và cộng sự 
nghiên cứu về vai trò của vùng ITS2 trong tiến trình tạo tiền rRNA ở nấm men. 
2.2.4 Sơ đồ vị trí và trình tự các primer dùng trong nghiên cứu rDNA và vùng ITS 
2.2.4.1 Vị trí và trình tự primer khuếch đại nu - rDNA 
 Vị trí primer 
Hình 2.4 Sơ đồ vị trí primer trên nu - rDNA (White và cộng sự, 1989) 
 Các primer từ NS1 đến NS8 được thiết kế dựa trên vùng trình tự bảo tồn của 
rDNA 18 S của S. cerevisia
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 detai.pdf detai.pdf
 mucluc.doc mucluc.doc