Hoạt động kinh doanh ngày nay được đặt trong những điều kiện mới, khác với nhiều so với trước đây. Nó không chỉ là các điều kiện truyền thống ít biến động, mà còn có điều kiện thị trường và sự cung cấp sản phẩm mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ đầy sống động. Sự hoạt động của doanh nghiệp gắn với toàn cục của nền kinh tế với sự hòa nhập khu vực và quốc tế bằng sự tìm kiếm và phát huy các lợi thế so sánh, trong môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt và dữ dội. Sự phát triển ngắn hạn được đặt trong bối cảnh dài hạn với không ít cơ hội và nguy cơ phải nắm bắt và xử lý. Kết quả và hiệu quả-hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội gắn kết với nhau, vì chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Không có những kiến thức về quản trị chiến lược hiện đại, không thể nắm bắt và xử lý những điều kiện kinh doanh. Trong lý luận và thực tiễn quản trị, trước đây quản trị chiến lược được coi như là công việc của quản trị cấp cao, cấp thấp chỉ là những thừa hành những gì đã được quyết định bởi cấp trên của họ. Điều này đã có sự thay đổi căn bản trong điều kiện hiện nay. Thứ nhất, quản trị chiến lược không còn chỉ là công việc riêng của quản trị cấp cao mà nó đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người trong tổ chức; thứ hai, hiệu suất hoạt động cao của các bộ phận trong tổ chức không đủ để đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh khi nó không cộng hưởng và nhằm đạt tới các sứ mạng và mục tiêu hoạt động của tổ chức. Hoạt động của các bộ phận và cá nhân đòi hỏi sự hiểu biết của họ về tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu của tổ chức và vai trò của họ trong đó; thứ ba, môi trường kinh doanh thay đổi rất nhanh, cạnh tranh mang tính toàn cầu, đã đòi hỏi tổ chức phải năng động, sáng tạo đủ sức thích ứng với sự thay đổi. Phân cấp quản lý, tự chủ vận hành dẫn đến sự năng động, sáng tạo của các bộ phận, cá nhân qua đó cho phép thích ứng tốt hơn với sự thay đổi. Tuy nhiên sự độc lập tự chủ của các bộ phận và cá nhân chỉ có hiệu quả khi họ hiểu và có sự tích cực nhiệt tình với các mục tiêu và và mục đích chung của tổ chức. Những thay đổi này đã làm nổi lên tầm quan trọng của quản trị chiến lược trong tất cả các tổ chức.
Vì vậy, để quản trị kinh doanh một doanh nghiệp không thể không xác lập các chiến lược kinh doanh. Bởi vì, chỉ có quản lý doanh nghiệp theo lối tư duy chiến lược mới có thể giúp cho doanh nghiệp luôn thích nghi và nắm bắt kịp thời các cơ hội từ môi trường kinh doanh, chuyển biến kịp thời các phương hướng kinh doanh, lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong khuôn khổ khả năng nguồn lực hiện có và tiềm ẩn của doanh nghiệp, đối phó một cách thành công với những biến đổi bất lợi của môi trường kinh doanh.
Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO trước đây sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Từ khi công ty cổ phần hóa đã đạt được một số kết quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng hoạt động của Công ty vẫn gặp nhiều khó khăn vì chiến lược chưa rõ ràng, còn nhiều bất cập nên đã để lãng phí các nguồn lực. Chính vì thế Công ty cần có một chiến lược kinh doanh rõ ràng, đúng đắn để sử dụng tốt các nguồn lực hiện có và tiềm tàng của Công ty.
Với ý nghĩa hết sức quan trọng của chiến lược sản xuất kinh doanh, trong thời gian thực tập tai Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO đến năm 2010”.
• Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
- Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty qua 04 năm (2000-2003);
- Xem xet, phân tích những yếu tố vĩ mô, vi mô nội bộ ảnh hưởng tới hoạt động của Công ty;
- Phát hiện những cơ hội, rủi ro, những điểm mạnh điểm yếu của Công ty nhằm tìm kiếm lợi thế cạnh tranh giúp Công ty chiếm vị trí độc tôn trên thị trường. Vị trí này được thiết lập dựa vào năng lực (như chất lượng, dịch vụ, tính hiệu quả, các sáng kiến và các năng lực khác) mà Công ty tạo ra lợi thế vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh.
• Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chúng;
- Phương pháp điều tra thu thập số liệu;
- Phương pháp phân tích, so sánh;
- Phương pháp dự báo;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp mô hình hóa
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn;
- Phương pháp ma trận SWOT.
• Phạm vi nghiên cứu:
- Về địa điểm: Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO trực thuộc Tổng công ty xây dựng miền trung COSEVCO đóng tại xã Lộc Ninh - Đồng Hới -Quảng Bình. Là đơn vị hạch toán độc lập.
- Về nội dung: phân tich môi trường kinh doanh từ đó xây dựng chiến lược hoạt động kinh doanh của Công ty đến năm 2010;
- Về thời gian: từ năm 2000 đến năm 2003.
37 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2883 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng chiến lược kinh doanh của công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động kinh doanh ngày nay được đặt trong những điều kiện mới, khác với nhiều so với trước đây. Nó không chỉ là các điều kiện truyền thống ít biến động, mà còn có điều kiện thị trường và sự cung cấp sản phẩm mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật-công nghệ đầy sống động. Sự hoạt động của doanh nghiệp gắn với toàn cục của nền kinh tế với sự hòa nhập khu vực và quốc tế bằng sự tìm kiếm và phát huy các lợi thế so sánh, trong môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt và dữ dội. Sự phát triển ngắn hạn được đặt trong bối cảnh dài hạn với không ít cơ hội và nguy cơ phải nắm bắt và xử lý. Kết quả và hiệu quả-hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội gắn kết với nhau, vì chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Không có những kiến thức về quản trị chiến lược hiện đại, không thể nắm bắt và xử lý những điều kiện kinh doanh. Trong lý luận và thực tiễn quản trị, trước đây quản trị chiến lược được coi như là công việc của quản trị cấp cao, cấp thấp chỉ là những thừa hành những gì đã được quyết định bởi cấp trên của họ. Điều này đã có sự thay đổi căn bản trong điều kiện hiện nay. Thứ nhất, quản trị chiến lược không còn chỉ là công việc riêng của quản trị cấp cao mà nó đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người trong tổ chức; thứ hai, hiệu suất hoạt động cao của các bộ phận trong tổ chức không đủ để đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh khi nó không cộng hưởng và nhằm đạt tới các sứ mạng và mục tiêu hoạt động của tổ chức. Hoạt động của các bộ phận và cá nhân đòi hỏi sự hiểu biết của họ về tầm nhìn, sứ mạng, mục tiêu của tổ chức và vai trò của họ trong đó; thứ ba, môi trường kinh doanh thay đổi rất nhanh, cạnh tranh mang tính toàn cầu, đã đòi hỏi tổ chức phải năng động, sáng tạo đủ sức thích ứng với sự thay đổi. Phân cấp quản lý, tự chủ vận hành dẫn đến sự năng động, sáng tạo của các bộ phận, cá nhân qua đó cho phép thích ứng tốt hơn với sự thay đổi. Tuy nhiên sự độc lập tự chủ của các bộ phận và cá nhân chỉ có hiệu quả khi họ hiểu và có sự tích cực nhiệt tình với các mục tiêu và và mục đích chung của tổ chức. Những thay đổi này đã làm nổi lên tầm quan trọng của quản trị chiến lược trong tất cả các tổ chức.
Vì vậy, để quản trị kinh doanh một doanh nghiệp không thể không xác lập các chiến lược kinh doanh. Bởi vì, chỉ có quản lý doanh nghiệp theo lối tư duy chiến lược mới có thể giúp cho doanh nghiệp luôn thích nghi và nắm bắt kịp thời các cơ hội từ môi trường kinh doanh, chuyển biến kịp thời các phương hướng kinh doanh, lựa chọn đúng thị trường mục tiêu trong khuôn khổ khả năng nguồn lực hiện có và tiềm ẩn của doanh nghiệp, đối phó một cách thành công với những biến đổi bất lợi của môi trường kinh doanh.
Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO trước đây sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Từ khi công ty cổ phần hóa đã đạt được một số kết quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng hoạt động của Công ty vẫn gặp nhiều khó khăn vì chiến lược chưa rõ ràng, còn nhiều bất cập nên đã để lãng phí các nguồn lực. Chính vì thế Công ty cần có một chiến lược kinh doanh rõ ràng, đúng đắn để sử dụng tốt các nguồn lực hiện có và tiềm tàng của Công ty.
Với ý nghĩa hết sức quan trọng của chiến lược sản xuất kinh doanh, trong thời gian thực tập tai Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO đến năm 2010”.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty qua 04 năm (2000-2003);
Xem xet, phân tích những yếu tố vĩ mô, vi mô nội bộ ảnh hưởng tới hoạt động của Công ty;
Phát hiện những cơ hội, rủi ro, những điểm mạnh điểm yếu của Công ty nhằm tìm kiếm lợi thế cạnh tranh giúp Công ty chiếm vị trí độc tôn trên thị trường. Vị trí này được thiết lập dựa vào năng lực (như chất lượng, dịch vụ, tính hiệu quả, các sáng kiến và các năng lực khác) mà Công ty tạo ra lợi thế vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh.
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chúng;
Phương pháp điều tra thu thập số liệu;
Phương pháp phân tích, so sánh;
Phương pháp dự báo;
Phương pháp thống kê;
Phương pháp mô hình hóa
Phương pháp điều tra, phỏng vấn;
Phương pháp ma trận SWOT.
Phạm vi nghiên cứu:
Về địa điểm: Công ty cổ phần gốm sứ và xây dựng COSEVCO trực thuộc Tổng công ty xây dựng miền trung COSEVCO đóng tại xã Lộc Ninh - Đồng Hới -Quảng Bình. Là đơn vị hạch toán độc lập.
Về nội dung: phân tich môi trường kinh doanh từ đó xây dựng chiến lược hoạt động kinh doanh của Công ty đến năm 2010;
Về thời gian: từ năm 2000 đến năm 2003.
Với thời gian thực tập hạn chế và kiến thức chưa sâu mặc dù bản thân đã cố gắng và nỗ lực lớn song đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi sai sót. Kính mong nhận được sự quan tâm, góp ý kiến, phê bình của thầy, cô giáo cùng với các phòng ban lãnh đạo trong Công ty để đề tài được hoàn thiện hơn.
PHẦN II:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHIẾN LƯỢC
KINH DOANH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một sản phẩm kết hợp được những gì môi trường có, những gì doanh nghiệp có thể đạt được và những gì doanh nghiệp mong muốn. Nói cách khác, chiến lược kinh doanh là một nghệ thuật thiết kế, tổ chức các phương tiện nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn, phù hợp với xu thế biến động của môi trường kinh doanh và giành thắng lợi trong cạnh tranh.
1.1.1 Vai trò của chiến lược kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, một doanh nghiệp muốn thành công phải có một chiến lược kinh doanh vì chiến lược kinh doanh đóng một vai trò rất quan trọng:
Giúp doanh nghiệp thấy rõ các mục đích và hướng đi, từ đó cung cấp cho doanh nghiệp một phương hướng kinh doanh cụ thể.
Môi trường kinh doanh luôn luôn biến đổi tạo ra các cơ hội và nguy cơ bất ngờ. Phương cách quản trị chiến lược giúp các nhà quản trị nhằm vào các cơ hội và các nguy cơ trong tương lai. Quá trình quản trị chiến lược buộc nhà quản trị phân tích và dự báo các điều kiện môi trường trong tương lai do đó mà nhà quản trị có khả năng nắm bắt tốt hơn các cơ hội, tận dụng tốt các cơ hội và giảm bớt các nguy cơ, phát huy lợi thế cạnh tranh, tăng cường sức mạnh cho doanh nghiệp.
Nhờ vào quá trình quản trị chiến lược, doanh nghiệp sẽ gắn liền các quyết định với điều kiện môi trường kinh doanh. Do sự biến động và sự phức tạp của môi trường ngày càng gia tăng, doanh nghiệp cần phải cố gắng chiếm được vị thế chủ động tấn công. Bên cạnh đó cần phải dự báo các nguy cơ để có kế hoạch đối phó tránh tổn thất.
Nhờ có chiến lược giúp cho doanh nghiệp khai thác hết các nguồn lực hiện có và tiềm tàng từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Để doanh nghiệp có thể phát triển bền vững, các nhà quản trị cần có quan điểm dài hạn, tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển của doanh nghiệp. Những mục tiêu, chiến lược dài hạn là cơ sở quan trọng cho các kế hoạch, mục tiêu ngắn hạn. Thông qua các mục tiêu và kế hoạch ngắn hạn để đạt tới mục tiêu, chiến lược dài hạn. Trong điều kiện của môi trường kinh doanh thay đổi nhanh và bất định thì năng lực thích ứng của doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc xử lý các vấn đề cấp bách hiện tại chổ có hiệu quả khi nó dựa trên một định hướng dài hạn và hướng tới việc đạt được các mục tiêu chiến lược dài hạn. Hơn nữa, các nhà quản trị và người lao động ở các doanh nghiệp thường chỉ nhìn thấy các mục tiêu ngắn hạn của các bộ phận trong doanh nghiệp do đó có thể có những hoạt động bất lợi cho các mục tiêu, chiến lược dài hạn. Vì thế quản trị chiến lược gắn sự phát triển ngắn hạn trong bối cảnh dài hạn.
1.1.2 Phân loại chiến lược kinh doanh
Theo cấp quản lý:
Chiến lược cấp công ty:
Tiến trình tăng trưởng và phát triển đặt công ty trước sự lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và thị trường. Quá trình tăng trưởng của công ty có thể bắt đầu bằng sự tập trung vào một lĩng vực kinh doanh nào đó, sau đó thực hiện phát triển thị trường và tiến hành đa dạng hóa .
Chiến lược cấp kinh doanh:
Để cạnh tranh có hiệu quả công ty cần nhận dạng những cơ hội và nguy cơ trong môi trường kinh doanh ngành. Để lựa chọn chiến lược cạnh tranh trên cơ sở các năng lực phân biệt và lợi thế cạnh tranh các nhà quản trị cần hiểu nền tảng của chiến lược cạnh tranh, nguồn của lợi thế cạnh tranh, từ đó gắn nó với chiến lược đầu tư trong bối cảnh phát triển của ngành.
Chiến lược cấp chức năng:
Đây là chiến lược xây dựng ở cấp chức năng nhằm phát huy và phát triển các lợi thế cạnh tranh của công ty. Đó là chiến lược về nguồn nhân lực, Marketing, tài chính, vận hành, nghiên cứu phát triển phải được thiết kế phù hợp với chiến lược cạnh tranh đã chọn, nhằm đạt đến chiến lược cạnh tranh đã chọn, đạt đến mục tiêu của chiến lược cạnhh tranh và công ty.
Theo mục tiêu kinh doanh:
Chiến lược tăng trưởng tập trung: khi theo đuổi chiến lược này doanh nghiệp phải nổ lực khai thác mọi cơ hội có thể khai thác được trên thị trường hiện có và các sản phẩm đang sản xuất bằng cách thực hiện tốt những công việc mà họ đang làm, cụ thể là phát triển trên cơ sở chuyên môn hóa để tăng doanh số, phát triển thị phần, thu thêm lợi nhuận trên chính các thị trường hoặc sản phẩm hiện có, hoặc chỉ thay đổi sản phẩm hay thay đổi thị trường. Có ba loại chiến lược cụ thể sau:
+ Chiến lược xâm nhập thị trường:
Đây là chiến lược không làm thay đổi bất cứ yếu tố nào mà chỉ làm tăng thị phần nhờ nổ lực Marketing tốt hơn, mạnh mẽ hơn bằng cách tăng số lượng nhân viên bán hàng và các nổ lực bán hàng, tăng cường quảng cáo, tăng cường các hoạt động khuyến mãi và hậu mãi. Chiến lược này chỉ phát huy hiệu quả khi thị trường hiện tại chưa bão hòa với những sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, khi tốc độ tăng trưởng về nhu cầu cao về sản phẩm và dịch vụ đó, khi thị phần của các đối thủ cạnh tranh bị giảm sút nhưng doanh số toàn ngành vẫn tăng.
+ Chiến lược phát triển thị trường:
Là chiến lược làm tăng trưởng bằng đưa sản phẩm hiện có hoặc sản phẩm mới ra thị trường mới, ở đó khả năng tiêu thụ sản phẩm và cạnh tranh ít gay gắt hơn, trong khi đó thị trường hiện tại đã bão hòa hay cạnh tranh quá gay gắt.
+ Chiến lược phát triển mới:
Đây là chiến lược phát triển bằng cách sản xuất sản phẩm mới hoặc cải tiến các sản phẩm, dịch vụ hiện có trên thị trường hiện tại. Chiến lược này được áp dụng khi khi doanh nghiệp có những sản phẩm ở giai đoạn bão hòa; khi doanh nghiệp có một khả năng rất mạnh về nghiên cứu và phát triển; khi các đối thủ cạnh tranh đưa ra thị trường những sản phẩm tốt hơn bán với giá cạnh tranh và khi trong ngành có sự phát triển về công nghệ rất nhanh.
Chiến lược phát triển hội nhập:
Các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành kinh tế mà thấy rằng con đường tăng trưởng tập trung khó khăn thì có thể tìm đến sự phát triển bằng con đường hội nhập (liên kết). Chiến lược này giúp doanh nghiệp tăng cường vị thế cạnh tranh của mình trong ngành đó đồng thời phát triển được quy mô kinh doanh mặc dù doanh nghiệp không cần tìm kiếm thị trường kinh doanh mới hoặc phát triển sản phẩm mới. Chiến lược này gồm hai loại:
+ Phát triển hội nhập thuận chiều (về phía trước):
Tức là tìm kiếm sự tăng trưởng của doanh nghiệp bằng cách mua lại, nắm quyền sở hữu một phần hoặc tăng cường kiểm soát các hoạt động thuộc chức năng phân phối, tiêu thụ tiến gần đến khách hàng cuối cùng trên thị trường. Chiến lược này chỉ thực hiện có hiệu quả khi: doanh nghiệp phải chi qúa nhiều cho các nhà phân phối hiện tại hoặc các nhà phân phối hoạt động kém hiệu quả không đáng tin cậylàm cho sức cạnh tranh bị giảm sút; doanh nghiệp phải cạnh tranh trong một ngành có tốc độ phát triển cao; các nhà phân phối và bán lẽ thu được nhiều lợi nhuận; doanh nghiệp có đủ vốn và nhân lực để quản lý và phân phối những sản phẩm của mình.
+ Phát triển hội nhập ngược chiều (về phía sau):
Là sự tìm kiếm tăng trưởng của doanh nghiệp bằng cách thâm nhập vào các hoạt động về phía chức năng sản xuất nguyên liệu hoặc hàng hoá cung cấp cho hoạt động hiện tại của doanh nghiệp. Hội nhập này có hiệu quả khi: có quá ít nhà cung cấp hoặc quá nhiều nhà cạnh tranh; doanh nghiệp phải cạnh tranh trong một ngành có công nghệ phát triển nhanh; doanh nghiệp có khả năng về vốn và nhân lực để có thể quản lý những hoạt động thuộc chức năng về phía sau; khu vực hoạt động này có khả năng thu nhiều lợi nhuận.
Chiến lược phát triển đa dạng hóa:
+ Đa dạng hóa đồng tâm:
Là sự tìm kiếm sự tăng trưởng bằng cách đưa sản phẩm mới trên thị trường mới nhưng có sự liên hệ mật thiết với công nghệ sản xuất và hệ thống Marketing hiện có của doanh nghiệp.
+ Đa dạng hóa hàng ngang:
Là sự tìm kiếm sự tăng trưởng bằng cách đưa ra những sản phẩm, dịch vụ mới trên thị trường hiện có mà các sản phẩm, dịch vụ mới này không có gì liên quan đến sản phẩm hiện có về công nghệ thậm chí có thể chuyển sang ngành sản xuất mới.
+ Đa dạng hóa kết hơp:
Là sự tìm kiếm sự tăng trưởng bằng cách đưa ra những sản phẩm mới mà không liên quan gì đến sản phẩm hiện có kể cả thị trường, công nghệ, trình độ và ngành sản xuất.
Chiến lược suy giảm:
Chiến lược này thích hợp với các doanh nghiệp phải tạm ngừng một thời gian để sắp xếp lại, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bởi trải qua thời kì dài bị cuốn vào sự phát triển quá nhanh nhằm tận dụng các cơ hội phát triển dài hạn hiếm có nay đã thấy những vấn đề không ổn trong quản trị. Căn cứ vào mức độ có thể phân ra các loại sau:
+ Sự chỉnh đốn đơn giản:
Đây là chiến lược ngắn hạn, tạm thời nhằm tiết kiệm chi phí và tổ chức lại cho phù hợp.
+ Rút bớt vốn đầu tư:
Bán bớt một vài đơn vị kinh doanh của mình khi các đơn vị này không những không có triển vọng mà còn gây thua lỗ.
+ Thu hoạch:
Đây là chiến lược nhằm khai thác tối đa khả năng thu lượng tiền mặt trước mắt mà không quan tâm đến hậu quả đối với đơn vị kinh doanh sau này.
+ Thanh lý:
Bán đi tất cả tài sản của doanh nghiệp từng phần một theo kế hoạch với giá trị đích thực của nó.
1.1.3 Những căn cứ để hình thành chiến lược kinh doanh
Xây dựng chiến lược kinh doanh phải quan tâm đến cả ba đối tượng đó là bản thân doanh nghiệp, khách hàng và đối thủ cạnh tranh
1.1.3.1- Căn cứ và khách hàng
Khách hàng là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng là điều mong muốn của mọi doanh nghiệp.
Một trong những bí quyết thành công nhất trong kinh doanh là sự hiểu biết cặn kẽ tính chất của thị trường, từng loại khách hàng. Nhu cầu của khách hàng phụ thuộc và tuổi tác, giới tính, thu nhập, ý thức, tập tính, thói quen tiêu dùng, phong tục tập quán, tôn giáo… vì vậy cần phải phân khách hàng thành những nhóm khác nhau để phục vụ họ. Để nhận biết khách hàng cần phải phân chia thị trường:
Phân chia thị trường theo mục tiêu của khách hàng.
Phân chia thị trường theo khả năng đáp ứng của doanh nghiệp.
Từ sự phân chia chúng ta sẽ xác định đoạn thị trường nào doanh nghiệp sẽ hướng tới và có hiệu quả cao.
1.1.3.2- Căn cứ vào bản thân của doanh nghiệp
Căn cứ này nhằm sử dụng tối đa sức mạnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong những hoạt động chức năng quan trọng, có ý nghĩa then chốt để thành công trong ngành mà doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động. Để thực hiện được ý đồ trên doanh nghiệp cần:
Xác định chức năng then chốt và duy trì sức mạnh của nó so với đối thủ cạnh tranh, đây là vấn đề sống còn trong việc giành lại lợi thế cạnh tranh.
Xây dựng chiến lược dựa vào các chức năng.
Nâng cao hiệu quả chi phí cho các chức năng.
1.1.3.3- Căn cứ vào đối thủ cạnh tranh
Khi xây dựng chiến lược dựa vào đối thủ cạnh tranh trước hết phải quan tâm đến lợi thế cạnh tranh, phân tích các khả năng tạo ra sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh kể cả các công cụ áp dụng (chẳng hạn công nghệ, chất lượng, uy tín, giá cả, phương thức thanh toán…), sự khác biệt về sản phẩm, kênh phân phối, phương thức bán, các dịch vụ hỗ trự, hậu mãi, không những thế phải phân tích hiệu quả các chi phí đầu tư trong việc tạo ra ưu thế cạnh tranh. Khi phân tích, lựa chọn, quyết định cần phải căn cứ vào đối thủ cạnh tranh để:
Đưa ra các khả năng có thể làm phân biệt giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh.
Xem xét hiện tượng rò rỉ của khách hàng.
Khai thác những ưu thế hữu hình.
Lợi dụng sự khác biệt về cơ cấu lợi nhuận và chi phí có lợi cho doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó.
Khi tương quan lực lượng giữa doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh quá chênh lệch cần phải có biện pháp uyển chuyển, khôn khéo trong cạnh tranh.
1.1.4- Các bước xây dựng chiến lược
1.1.4.1- Bước 1: Phác thảo viễn cảnh và sử dụng viễn cảnh để tạo ra sứ mệnh
Viễn cảnh:
Là “một giấc mơ” về hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ diễn ra trong tương lai, tập trung sự chú ý của mọi người để đạt được mục tiêu đó, vì thế cần:
Định hướng cho tương lai và chỉ ra con đường đạt được điều đó.
Động viên nhân viên để tất cả mọi người hăng hái hoạt động.
Sứ mệnh:
Sứ mệnh được hiểu là lý do tồn tại, ý nghĩa của sự tồn tại và các hoạt động của tổ chức.
Sứ mệnh được thể hiện ra đưới dạng bản tuyên bố về hoạt động của tổ chức, nó thể hiện rõ hơn ở niềm tin, những chỉ dẩn hướng tới viễn cảnh đã xác định. Sứ mệnh của doanh nghiệp là bản tuyên ngôn của doanh nghiệp đối với xã hội. Thực chất của bản tuyên bố sứ mệnh của doanh nghiệp nhằm làm rõ một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp: vấn đề rất quan trọng “doanh nghiệp tồn tại nhằm mục đích gì?”. Bản tuyên bố về sứ mệnh thường phải đề cập đến sản phẩm, thị trường, khách hàng, công nghệ, những triết lý mà doanh nghiệp theo đuổi, sự quan tâm đối với vấn đề sống còn, phát triển và khả năng sinh lợi, tự đánh giá về mình, mối quan tâm đối với hình ảnh cộng đồng và nhân viên.
Như vậy có thể nói bản tuyên bố sứ mệnh cho thấy ý nghĩa của việc tồn tại của một tổ chức, những cái họ muốn trở thành, những khách hàng mà họ muốn phục vụ, những phương thức mà họ hoạt động.
Bản tuyên bố sứ mệnh tạo cơ sở cho việc thực hiện đúng đắn các mục tiêu và các chiến lược của doanh nghiệp, hơn nữa nó giúp tạo lập và củng cố hình ảnh của doanh nghiệp trước xã hội cũng như tạo ra sự hấp dẫn giữa các đối tượng hữu quan.
1.1.4.2- Bước 2: Xác định các lợi thế cạnh tranh cơ bản và thị trường mục tiêu cũng như vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp:
Các lợi thế này được tạo ra dựa trên:
Năng lực cốt lõi của doanh nghiệp.
Cách thức doanh nghiệp cạnh tranh.
Không yêu cầu phải có nhiều tiền mà dựa trên uy tín, các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
Thị trường mục tiêu:
Để xác định thị trường mục tiêu cần phải phân đoạn thị trường, dựa vào điều kiện cụ thể và khả năng của mình mà doanh nghiệp lựa chọn thị trường cụ thể để xâm nhập và khai thác. Thị trường mục tiêu phải có khả năng tiếp cận được và phải chỉ ra cách thức sử dụng sản phẩm, cách xây dựng uy tín nhãn hiệu, thương hiệu, lợi ích của sản phẩm, cách thức mua bán, chi trả, kênh phân phối.
Định vị:
- Là tạo ra hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường để khách hàng tiềm ẩn quan tâm đến sản phẩm của họ.
- Làm cho sản phẩm phù hợp với nhu cầu, sở thích và thị hiếu của khách hàng.
- Tạo ra sự khác biệt của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
- Phương thức định vị:
+ Tìm hiểu nhu cầu