Sóc Trăng làtỉnh thuộc khuvực miền Tây NamBộ,nằm ven biển đôngvới
72km đường biển, được khai thácbởi bacộng đồng ngờiKinh, Hoa, Khmer.Phía
Bắc tiếp giáp với tỉnh Trà Vinh, phía Nam giáp v ớiBạcLiêu, phíaTây giáp với Cần
Thơ và phía Đông giápvới biển. Diện tíchtự nhiên 3.223,3Km2
,tổngsố dân
1.274.000 ng ời, trong đó dântộc Khmer có 374.711 khẩuvới 80.856hộ chiếmtỷ
lệ 30,24% dânsố toàntỉnh [1, tr 1]. Sóc Trăng cótỷlệ ngời Khmer đông nhất
ĐồngBằng SôngCửu Long. Đơnvị hành chính baogồm 8 huyện và 1 thành phố
(thành phố Sóc Trăng), các huyện có đồng bào dântộc Khmertập sinhsống nhiều
như:Vĩnh Châu, kế đến là Mỹ Xuyên và MỹTú.
Trênmảnh đất Sóc Trăng ba dântộc Kinh, Hoa, Khmers ống chan hòagần
gũi xenkẽlẫn nhau,tạo nênsự giaolưuvăn hóa giữa các dântộc, nhưngvẫnbảo
lưu những giá trịvăn hóa riêngcủa dântộc mình. Đồng bào dântộc Khmer thờng
sốngtập trung thành những phum, sóc, trong đó các gia đình thờngsống liềnkề
nhau. Từ lâu,dân tộcKhmer sống bằng nghềnông nghiệp, trồng lúanớc, hoa màu,
nhiều nghilễ liên quan đếnvụ mùa, nhiềutậptục thể hiệnnếpsốngvăn hóa nông
nghiệp đã được hình thành và ăn sâu vào tiềm thứccủa đồng bào dântộc Khmer.
Văn hóacủa ngời Khmer Sóc Trăng đợc hình thànhtừrất lâu đời, làkết quảcủa
sựkế thừa nhiềunền văn hóakhác nhauvừa đadạngvừa phong phú.Ngời Khmer
chiếmtỷlệ khá đông dâncư toàntỉnh, vìvậy việc xâydựng và phát triển đờisống
văn hóa đồng bào dânt ộc Khmercũng góp phầnlớn chosự phát triểnvăn hóa toàn
tỉnhcũng nhưcủa khuvực Tây NamBộ. Trong quá trình đẩymạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đấtnớc, Sóc Trăngrấtquan tâm đếnviệc xâydựng đời sốngvăn
hóa cho đồng bào các dântộc, đặc biệt chú trọng đến dântộc Khmer.Hiện nay, đời
sốngvăn hóacủa đồng bào dânt ộc Khmer có nhiều tiếnbộ và thay đổi nhưngvẫn
gặp phải nhiều khó khăn,bấtcập. Các thếlực thù địch chưatừbỏ âmmưu lôi kéo,
dụdỗ, kích động gây chia rẽ, thù hằn giữa cácdân tộc trong khu vực cũng như trong
cảnớc. Do đó, việc xâydựng đờisốngvăn hóa cho đồng bào dântộc Khmer Sóc
Trăng hiện nay càng th ựcsựcần thiết vàcấp bách, góp phần xâydựngnềnvăn hóa
Việt Nam thống nhất, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì lý do trên, tác giả chọn nghiêncứu đề tài: “Xâydựng đờisốngvăn
hóa đồng bào dânt ộcKhmertỉnh Sóc Trăng hiện nay - Thực trạng và giải pháp”.
71 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4058 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng đời sống văn hóa đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng hiện nay – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA MÁC – LÊNIN, TT. HỒ CHÍ MINH
&
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA ĐỒNG
BÀO DÂN TỘC KHMER TỈNH SÓC TRĂNG
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140204
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. GVC Phan Văn Thạng Trần Thị Kim Nhẫn
MSSV: 6044622
Lớp: SP.GDCD K30
Cần Thơ, 5/2008
PHẦN MỞ BÀI
1. Lý do chọn đề tài
Sóc Trăng là tỉnh thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ, nằm ven biển đông với
72 km đường biển, được khai thác bởi ba cộng đồng người Kinh, Hoa, Khmer. Phía
Bắc tiếp giáp với tỉnh Trà Vinh, phía Nam giáp với Bạc Liêu, phía Tây giáp với Cần
Thơ và phía Đông giáp với biển. Diện tích tự nhiên 3.223,3Km2, tổng số dân
1.274.000 người, trong đó dân tộc Khmer có 374.711 khẩu với 80.856 hộ chiếm tỷ
lệ 30,24% dân số toàn tỉnh [1, tr 1]. Sóc Trăng có tỷ lệ người Khmer đông nhất
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đơn vị hành chính bao gồm 8 huyện và 1 thành phố
(thành phố Sóc Trăng), các huyện có đồng bào dân tộc Khmer tập sinh sống nhiều
như: Vĩnh Châu, kế đến là Mỹ Xuyên và Mỹ Tú.
Trên mảnh đất Sóc Trăng ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống chan hòa gần
gũi xen kẽ lẫn nhau, tạo nên sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, nhưng vẫn bảo
lưu những giá trị văn hóa riêng của dân tộc mình. Đồng bào dân tộc Khmer thường
sống tập trung thành những phum, sóc, trong đó các gia đình thường sống liền kề
nhau. Từ lâu, dân tộc Khmer sống bằng nghề nông nghiệp, trồng lúa nước, hoa màu,
nhiều nghi lễ liên quan đến vụ mùa, nhiều tập tục thể hiện nếp sống văn hóa nông
nghiệp đã được hình thành và ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào dân tộc Khmer.
Văn hóa của người Khmer Sóc Trăng được hình thành từ rất lâu đời, là kết quả của
sự kế thừa nhiều nền văn hóa khác nhau vừa đa dạng vừa phong phú. Người Khmer
chiếm tỷ lệ khá đông dân cư toàn tỉnh, vì vậy việc xây dựng và phát triển đời sống
văn hóa đồng bào dân tộc Khmer cũng góp phần lớn cho sự phát triển văn hóa toàn
tỉnh cũng như của khu vực Tây Nam Bộ. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Sóc Trăng rất quan tâm đến việc xây dựng đời sống văn
hóa cho đồng bào các dân tộc, đặc biệt chú trọng đến dân tộc Khmer. Hiện nay, đời
sống văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer có nhiều tiến bộ và thay đổi nhưng vẫn
gặp phải nhiều khó khăn, bất cập. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu lôi kéo,
dụ dỗ, kích động gây chia rẽ, thù hằn giữa các dân tộc trong khu vực cũng như trong
cả nước. Do đó, việc xây dựng đời sống văn hóa cho đồng bào dân tộc Khmer Sóc
Trăng hiện nay càng thực sự cần thiết và cấp bách, góp phần xây dựng nền văn hóa
Việt Nam thống nhất, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Xây dựng đời sống văn
hóa đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng hiện nay - Thực trạng và giải pháp”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa đời sống văn hóa đồng bào
dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng.
Xây dựng đời sống văn hóa đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng từ năm
2002 đến nay
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích đề tài hướng đến việc nâng cao chất lượng đời sống văn hóa cho
đồng bào dân tộc Khmer ở Sóc Trăng, góp phần phát triển kinh tế và xây dựng một
nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.
Từ mục đích trên nhiệm vụ của đề tài là: phân tích và đánh giá thực trạng
xây dựng đời sống văn hóa đồng bào dân tộc Khmer Sóc Trăng. Từ đó, đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa cho đồng bào
dân tộc Khmer ở Sóc Trăng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh; những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp, thống
kê, đối chiếu, so sánh từ các nguồn tài liệu thu thập được; ngoài ra còn sử dụng
phương pháp lịch sử, logic…
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở bài, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương và 11 tiết.
Chương 1
VĂN HÓA VÀ VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA
1.1 Một số quan niệm về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm hết sức đa nghĩa. Nó thể hiện trong toàn bộ mọi
hoạt động, mọi lĩnh vực của xã hội, của cộng đồng, của mỗi gia đình cho đến từng
các nhân. Cho đến nay, văn hóa vẫn là một trong những khái niệm phức tạp và khó
xác định.
Về mặt thuật ngữ khoa học, văn hóa được bắt đầu từ chữ la tinh “Cultus” mà
nghĩa gốc là gieo trồng được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo trồng ruộng đất”
và “Cltus Animi” là “gieo trồng tinh thần” hay “canh tác tinh thần” tức là “sự giáo
dục bồi dưỡng tâm hồn con người”. Hoặc nói theo nhà triết học Anh Tomas
Hobbes: “Lao động giành cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là
gieo trồng tinh thần” [19, tr 93]
Cho đến nay, theo thống kê, có tới trên 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Mỗi định nghĩa đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, những góc độ riêng, mục đích
riêng phù hợp với vấn đề mà họ quan tâm hay nghiên cứu.
Các nhà tâm lý học xem xét văn hóa từ góc độ tác động của nó đến các nhân
trong quá trình xã hội hóa: “Văn hóa là toàn thể những môn học cho phép cá nhân
trong xã hội nhất định đạt đến sự phát triển nào đó về cảm năng, về ý thức phê phán
và các năng lực nhận thức, các khả năng sáng tạo” (TeanLadriere, UNESCO 1977).
Theo các nhà triết học: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần
do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội và đặc trưng cho trình độ
đạt được trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội” (Từ điển triết học, tiếng
Bungari 1986).
Các nhà xã hội học cũng định nghĩa văn hóa theo nhiều cách khác nhau. Có
người đồng nhất văn hóa với văn minh, theo định nghĩa dân tộc rộng nhất, chỉ toàn
bộ tập hợp bao gồm khoa học, tín ngưỡng, đạo đức, pháp luật, phong tục, những kỹ
năng và thói quen khác do con người thu nhận được với tư cách thành viên của xã
hội (B.T. Etuốt). Có người cho rằng: văn hóa là tổng thể những hành vi học hỏi
được các giá trị, niềm tin, ngôn ngữ, luật pháp và kỹ thuật của các thành viên sống
trong một xã hội nhất định nào đó (P.T Côn và Tlobiu). Có người lại định nghĩa văn
hóa là một hệ thống các khuôn mẫu và chuẩn mực được soạn thảo (tức là được ghi
lại hình thức này hay hình thức khác trong các tập thể) về hành vi, hoạt động, giao
tiếp và tương tác của con người, có chức năng điều tiết và khống chế trong tập thể
lớn (T.M.Đritdơ) [ 19, tr 94]
Qua các định nghĩa về văn hóa, ta thấy tuy có nhiều điểm riêng theo từng góc
độ của nhà nghiên cứu, nhưng khái quát lại giữa chúng có những điểm chung như:
+ Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội
+ Là một hệ thống (các giá trị, các cơ cấu, kỹ thuật, thể chế các tư tưởng…)
được hình thành trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, được bảo tồn và
truyền lại cho các thế hệ sau.
+ Hệ thống văn hóa có chức năng như một khuôn mẫu chuẩn mực quy định
các hành vi xã hội. Mỗi cá nhân muốn trở thành con người xã hội, muốn hòa nhập
vào cộng đồng xã hội thì phải tiếp thu, tuân thủ theo các chuẩn mực đó. Về phương
diện này có thể coi văn hóa của xã hội là mục tiêu của quá trình xã hội hóa cá nhân
và nhóm.
Khái niệm văn hóa là khái niệm rất phức tạp. Không ít khái niệm người ta
đồng nhất văn hóa với khái niệm học vấn. Sự đồng nhất này có khi được biểu hiện
trên các văn bản có tính pháp quy. Ví dụ: trong mẫu các bản khai lý lịch có mục
trình độ văn hóa mà thực chất là trình độ học vấn, tuy nhiên cũng có người đạt trình
độ học vấn cao nhưng trong lối sống, cách ứng xử, trong quan hệ xã hội, vẫn cứ bị
coi là thiếu văn hóa.
Pufendorf - nhà khoa học Đức cho rằng: Văn hóa là toàn bộ những gì được
tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Tiếp tục
ý tưởng đó, nhà triết học Đức Herder cho rằng: Con người xuất hiện với tư cách
một thực thể tự nhiên, đến lần thứ hai con người hình thành và phát triển với tư cách
một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hóa.
E.B Tay lor đưa một khái niệm hiện đại về văn hóa: Văn hóa là một tổng thể
phức tạp, bao gồm trí thức tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục tập
quán và thói quen mà con người đạt được trong xã hội.
Trong nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng ta khẳng định: phải xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đến đại
hội IX một lần nữa nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa,
giáo dục, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm cho chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân”
Khái niệm văn hóa của UNESCO hướng vào cái cơ nhất và chung nhất. Ở
đây, văn hóa được định nghĩa: Văn hóa là tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi nhất đến tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, lối sống và lao động, nhờ đó con người tự định vị mình trong không gian và
thời gian nhất định để có thể giải thích thế giới, phát triển các năng lực biểu hiện
giao lưu sáng tạo.
Phạm vi của văn hóa hết sức rộng lớn, nhưng quan trọng hơn cả, nó là những
giá trị do hoạt động tinh thần - sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện trình độ hiểu
biết, thước đo trình độ phát triển và sự vươn lên tự hoàn thiện của con người theo lý
tưởng chân, thiện, mỹ.
Phạm Văn Đồng - nhà văn hóa lớn của đất nước thế kỷ XX cho rằng: Nói tới
văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn bao gồm tất những
gì không phải là thiên nhiên có liên quan đến con người trong quá trình tồn tại, phát
triển, quá trình con người làm nên lịch sử…“Cốt lõi của sức sống dân tộc là văn
hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả một hệ thống giá trị: tư
tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu
cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức
đề kháng và sức chiến đấu tự bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc
Trong nhiều tác phẩm Mác - Ănghen, đã có những dự báo khoa học và nhận
định về những tính chất của nền văn hóa tất cả vì con người và khả năng xây dựng
con người hoàn thiện. Nền văn hóa mới sẽ trả lại cho con người những giá trị tinh
thần vốn có và tất cả những yếu tố tích cực ấy sẽ được phát huy trong xã hội mới.
Sau cách mạng tháng Mười Nga thành công, Lênin đã đưa ra luận điểm có tính chất
cương lĩnh về xây dựng nền văn hóa mới, trong đó có tiếp thu di sản văn hóa quá
khứ và những nguyên tắc xây dựng nền văn hóa vô sản, đã phát họa ra cưỡng lĩnh
của nền văn hóa mới và bắt tay vào hiện thực trong thực tế của nước Xô-Viết.
Mác –Ănghen chỉ ra rằng tư tưởng thống trị một thời đại, tư tưởng của giai
cấp thống trị. Trên cơ sở luận điểm đó, Lênin phát hiện mặt thứ hai của vấn đề dựa
trên cuộc đấu tranh của quần chúng lao động chống lại giai cấp thống trị bóc lột.
Cuộc đấu tranh đó tất yếu sản sinh ra một dòng “văn hóa thứ hai” biểu hiện trực tiếp
tư tưởng, tình cảm và lợi ích của quần chúng lao động. Đây là cơ sở để tạo nên mọi
giá trị tinh thần của truyền thống văn hóa dân tộc. Lênin nhận xét “Mỗi nền văn hóa
dân tộc đều có những thành phần thậm chí không phát triển của nền văn hóa dân
chủ và xã hội chủ nghĩa, vì trong mọi dân tộc đều có quần chúng lao động bị bóc lột
và điều kiện sinh sống của họ nhất định phải sản sinh ra một hệ tư tưởng dân chủ và
xã hội chủ nghĩa”.
Lênin nêu lên nhiệm vụ của văn hóa mới phải xây dựng những con người
của thời đại mới, có giác ngộ cách mạng và có trình độ văn hóa cao. Ngành văn hóa
cách mạng phải đi vào những mũi nhọn của cuộc đấu tranh, góp phần giải quyết
những vấn đề khó khăn đặt ra trong cuộc sống, phải chống lại âm mưu phá hoại của
kẻ thù và không thể có sự thỏa hiệp trên trận địa đấu tranh tư tưởng. Lênin cho rằng,
văn nghệ sĩ không được lạc hậu, phải đi trước cuộc sống một bước, phải bắt rễ sâu
trong quần chúng và phản ánh những mặt tiêu biểu của cách mạng. Lênin nói “Nghệ
thuật của nhân dân nó phải bắt rễ hết sức sâu xa trong quảng đại quần chúng lao
động. Nó phải được quần chúng hiểu và được ưa thích, nó phải liên hợp được tình
cảm và ý chí của những quần chúng ấy, nâng lên một trình độ cao hơn”
Xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến có tính chất xã hội chủ nghĩa thấm
nhuần nội dung và hình thức dân tộc, gắn với những yêu cầu của thời đại mới, thời
đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ đồng thời là mục tiêu quan trọng của
cách mạng tư tưởng và văn hóa. Nền văn hóa vô sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Lênin gọi, kết hợp được truyền thống với hiện đại, vừa giữ gìn và phát huy được
bản sắc tinh hoa của dân tộc, vừa kế thừa được những thành quả tốt đẹp, ưu tú nhất
của văn hóa nhân loại qua các thời kỳ lịch sử. Một mặt, phải sáng tạo ra một nền
văn hóa phong phú, đa dạng và hiện đại; mặt khác phải làm cho giai cấp công nhân
và quần chúng lao động tham gia tích cực vào quá trình sáng tạo văn hóa, trở thành
chủ thể sản xuất tiêu dùng và cảm thụ các giá trị văn hóa nghệ thuật, xây dựng mặt
trận văn hóa lành mạnh.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ - nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc tự do phát triển toàn diện của nhân dân, xây dựng mối quan hệ
hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Những quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc được hình thành và phát triển trong quá trình thực tiễn lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ 1930 đến nay. Quan điểm
nhất quán xuyên suốt toàn bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của Đảng từ năm 1930 đến
nay luôn khẳng định văn hóa, văn nghệ là bộ phận khắng khít và gắn bó với đời
sống nhân dân.
“Đề cương văn hóa Việt Nam” (1943) xác định: “Văn hóa gồm tất cả tư
tưởng, văn học, nghệ thuật”, văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị và
văn hóa; ba phương châm của văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng. Đây là kim
chỉ nam cho việc xây dựng văn hóa mới. Năm 1946, tại Đại hội văn hóa toàn quốc
lần I Bác Hồ nói: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi
Đến Đại hội III của Đảng (1960) đã chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành cách
mạng tư tưởng, văn hóa đồng thời với cách mạng kỹ thuật và cách mạng trong quan
hệ sản xuất. Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1981) tiếp tục xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức
dân tộc, có tính Đảng và nhân dân.
Đại hội VI của Đảng (1986) nhấn mạnh: Không có hình thái tư tưởng nào có
thể thay thế được văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách lành mạnh, tác
động sâu sắc vào việc đổi mới nếp suy nghĩ, lẽ sống của con người.
Đại hội VII (1991) thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó chỉ rõ: xã hội chúng ta xây dựng có một đặc
trưng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Trung ương 4
khóa VII lần đầu tiên khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội.
Trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã khẳng định văn hóa Việt Nam là thành quả nghìn năm lao động, sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nền văn minh thế giới để không ngừng
hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh
Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nghị quyết còn khẳng định:
Phải xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Đến Đại hội IX, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống của nhân dân…”
Xây dựng và phát triển nền văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. Nhân dân là lực lượng làm
nên văn hóa trong cả ba khâu chủ yếu của tiến trình văn hóa: sáng tạo, truyền bá và
tiếp nhận. Đảng ta là lực lượng tiên phong về tư tưởng có sứ mệnh lãnh đạo, chỉ đạo
định hướng để nhân dân ta xây dựng văn hóa là vai trò rất quan trọng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc
dân tộc
Văn hóa theo nghĩa rộng nhất - đó là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình
trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng của toàn bộ đời sống của
loài người. Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các mặt của đời sống xã hội và
quan tâm đến trình độ phát triển của con người [9, tr 155].
Văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp hơn - đó là những giá trị tinh thần, là đời
sống tinh thần của xã hội như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, thẩm mỹ, tâm linh,
nghệ thuật…Như vậy, văn hóa chỉ là một mặt chứ không phải toàn bộ đời sống xã
hội của loài người.
Văn hóa còn được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, thường dùng hằng ngày - đó là
trình độ học vấn của con người.
Về văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt,
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng
với nhu cầu đời sống và đòi hỏi sinh tồn” [19, tr 95].
Như vậy, ta thấy quan niệm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính
khái quát cao, đồng thời cũng khá tương đồng với định nghĩa văn hóa của Tổng thư
ký UNESCO Federico Mayor. Có thể thống nhất định nghĩa văn hóa theo định
nghĩa của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor: Văn hóa là tổng thể sống động
các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và hiện
tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các
truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Có thể nói rằng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa nước ta, đòi hỏi ý chí cách mạng kiên định, trình độ trí tuệ và tính tự giác cao.
Mỗi cán bộ đảng viên cần nêu cao vai trò cán bộ gương mẫu của người cộng sản,
động viên nhân dân thực hiện thắng lợi theo Nghị quyết của Đảng và Bác Hồ:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Toàn Đảng, toàn dân phấn đấu để tổ quốc ta mãi là quốc gia văn hiến, dân tộc ta
không ngừng phát triển, xứng đáng với tầm vóc dân tộc trong lịch sử và trong thế
giới hiện đại ngày nay.
1.2 Vai trò của văn hóa
Cũng như mọi sinh thể khác, con người là một yếu tố trong vũ trụ, chịu sự
quy định chặt chẽ những điều kiện môi trường sống xung quanh. Nhưng khác với
mọi sinh thể khác, con người lại sống trong một trật tự xã hội với những thiết chế
nhất định, với những khả năng hoạt động sáng tạo nhất định, hay nói cách khác là
có văn hóa. Nếu giới tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là
cái nôi thứ hai, mà ở đó toàn bộ đời sống tinh thần của con người được hình thành,
được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể t