Đề tài Xây dựng khu công nghiệp sinh thái

Để đáp ứng nhu cầu đời sống cũng như sự phát triển của kinh tề - xã hội; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng có những bước tiến mạnh mẽ. Và tất nhiên, sự phát triển của các khu công nghiệp ngày càng nhiều. Các KCN phát triển nhanh chóng, đem lại về kinh tế lợi ích cho các quốc gia. Tuy nhiên, sự tập trung công nghiệp trong 1 khu vực nhất định càng làm tăng thêm các tác động xấu đến môi trường. Các ảnh hưởng xấu của KCN đến môi trường như: làm tăng hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ôzôn, ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước, cạn kiệt tài nguyên. Và Đại tá Phan Hữu Vinh đà từng nói: “Sự phát triển nóng của nền kinh tế và sự chú ý chưa đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, đặc biệt là tại các khu công nghiệp - khu chế xuất (KCN-KCX)”. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là làm sao vừa phát triển kinh tế - xã hội vừa bảo vệ môi trường hay nói cách khác là làm sao để phát triển bền vững? Để giải quyết vấn đề trên thì khái niệm KCN sinh thái ra đời được ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế giới. KCNST bắt đầu được phát triển từ những năm 90 của thế kỉ XX trên cơ sở của sinh thái học. Mục tiêu cơ bản của nó là làm tăng hiệu quả hoạt động công nghiệp và cải thiện môi trường. KCNST là 1 giải phàp cho tình trạng phát triển không bền vững như hiện nay tại các nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, để phát triển mô hình KCNST không phải là 1 đều đơn giản. Chúng ta sẽ gặp phải một số khó khăn trong việc huy động nguồn vốn đầu tư cũng như khó khăn trong việc quản lý và quy hoạch để xây dựng một mô hình công nghiệp đồng bộ và nhất quán trong mọi hoạt động. Song khó nhưng không phải là không làm được nếu chúng ta thực sự muốn phát triển và quan tâm tới môi trường. Nhận thấy được tính hữu ích và sự cần thiết của KCNST cho tình hình hiện nay, em đã chọn đề tài “xây dựng khu công nghiệp sinh thái”. Hi vọng qua đề tài mọi người sẽ có những kiến thức cơ bản về KCNST, biết được những lợi ích mà nó mang lại để khi cần chúng ta sẽ áp dụng những kiến thức mà mình biết vào thực tiễn.

doc47 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4091 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng khu công nghiệp sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BỘ MÔN: MÔI TRƯỜNG HỌC CƠ BẢN š&› ĐỀ TÀI: GVHD : GS.TSKH LÊ HUY BÁ SVTH : NGÔ THỊ YẾN NHI MSSV : 07710861 LỚP : ĐHMT3B TP. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2009! Trong quá trình thực hiện tiểu luận, em xin chân thành cảm ơn: phòng đa phương tiện, thư viện, Viện khoa học công nghệ và quản lý môi trường, trường ĐH Công Nghiệp tp Hồ Chí Minh đã cung cấp cơ sở vật chất và tài liệu để em hoàn thành bài tiểu luận. Và đặc biệt em xin gửi những lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Lê Huy Bá đã có những hướng dẫn cụ thể để em hoàn thành tiểu luận nhanh chóng và hiệu quả. Trong quá trình thực hiện tiểu luận, vì điều kiện thời gian và kiến thức em không thể tránh khỏi những sai sót mong thầy thông cảm và có những ý kiến đóng góp để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn! NHẬN XÉT CỦA GVHD MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Để đáp ứng nhu cầu đời sống cũng như sự phát triển của kinh tề - xã hội; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng có những bước tiến mạnh mẽ. Và tất nhiên, sự phát triển của các khu công nghiệp ngày càng nhiều. Các KCN phát triển nhanh chóng, đem lại về kinh tế lợi ích cho các quốc gia. Tuy nhiên, sự tập trung công nghiệp trong 1 khu vực nhất định càng làm tăng thêm các tác động xấu đến môi trường. Các ảnh hưởng xấu của KCN đến môi trường như: làm tăng hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ôzôn, ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước, cạn kiệt tài nguyên. Và Đại tá Phan Hữu Vinh đà từng nói: “Sự phát triển nóng của nền kinh tế và sự chú ý chưa đúng mức đến công tác bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, đặc biệt là tại các khu công nghiệp - khu chế xuất (KCN-KCX)”. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là làm sao vừa phát triển kinh tế - xã hội vừa bảo vệ môi trường hay nói cách khác là làm sao để phát triển bền vững? Để giải quyết vấn đề trên thì khái niệm KCN sinh thái ra đời được ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế giới. KCNST bắt đầu được phát triển từ những năm 90 của thế kỉ XX trên cơ sở của sinh thái học. Mục tiêu cơ bản của nó là làm tăng hiệu quả hoạt động công nghiệp và cải thiện môi trường. KCNST là 1 giải phàp cho tình trạng phát triển không bền vững như hiện nay tại các nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, để phát triển mô hình KCNST không phải là 1 đều đơn giản. Chúng ta sẽ gặp phải một số khó khăn trong việc huy động nguồn vốn đầu tư cũng như khó khăn trong việc quản lý và quy hoạch để xây dựng một mô hình công nghiệp đồng bộ và nhất quán trong mọi hoạt động. Song khó nhưng không phải là không làm được nếu chúng ta thực sự muốn phát triển và quan tâm tới môi trường. Nhận thấy được tính hữu ích và sự cần thiết của KCNST cho tình hình hiện nay, em đã chọn đề tài “xây dựng khu công nghiệp sinh thái”. Hi vọng qua đề tài mọi người sẽ có những kiến thức cơ bản về KCNST, biết được những lợi ích mà nó mang lại để khi cần chúng ta sẽ áp dụng những kiến thức mà mình biết vào thực tiễn. NỘI DUNG I Cơ sở lý thuyết để xây dựng một khu công nghiệp sinh thái: 1. Các khái niệm: 1.1 Khu công nghiệp sinh thái(KCNST)_ Eco-Industrial Park: KCNST là một “cộng đồng” các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ có mối liên hệ thiết trên cùng một lợi ích: hướng tới một hoạt động mang tính xã hội, kinh tế và môi trường có chất lượng cao, thông qua sự hợp tác trong việc quản lý các vấn đề về môi trường và nguồn tài nguyên. Bằng các hoạt động hợp tác chặt chẽ với nhau, “cộng đồng” KCNST sẽ đạt được một hiệu quả tổng thể lớn hơn nhiều so với tổng các hiệu quả mà từng doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ gọp lại. Khái niệm KCN sinh thái (KCNST) bắt đầu được phát triển từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 trên cơ sở của Sinh thái học công nghiệp (STHCN): Hệ công nghiệp không phải là các thực thể riêng rẽ mà là một tổng thể các hệ thống liên quan giống như hệ sinh thái; STHCN tìm cách loại trừ khái niệm “chất thải” trong sản xuất công nghiệp.  Mục tiêu cơ bản của nó là tăng cường hiệu quả của hoạt động công nghiệp và cải thiện môi trường: giảm thiểu sử dụng tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, giảm thiểu các tác động xấu môi trường, duy trì hệ sinh thái tự nhiên của khu vực,... Hiện nay trên thế giới có khoảng 30 KCNST, phần lớn nằm ở nước Mỹ và châu Âu. Tại châu Á, mạng lưới công nghiệp sinh thái với một số các KCNST đã được thành lập và phát triển ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước khác. KCNST được hình thành dựa trên các nghiên cứu và thử nghiệm trong các lĩnh vực cấp thiết hiện nay như: sinh thái học công nghiệp, sản xuất sạch; quy hoạch, kiến trúc và xây dựng bền vững; tiết kiện năng lượng; hợp tác doanh nghiệp. Các lĩnh vực này đang tạo nên một trào lưu rộng khắp bằng các nghiên cứu, chính sách và dự án cụ thể nhằm chứng tỏ các nguyên tắc của phát triển bền vững. Mục tiêu của KCNST là cải thiện hoạt động kinh tế đồng thời giảm thiểu các tác động tới môi trường của các doanh nghiệp thành viên (DNTV) trong KCNST. Một KCNST thực sự cần phải là: Một mạng lưới hay một nhóm các doanh nghiệp sử dụng các phế phẩm, phụ phẩm của nhau (BPX). Một tập hợp các doanh nghiệp tái chế. Một tập hợp các công ty có công nghệ sản xuất bảo vệ môi trường. Một tập hợp các công ty sản xuất sản phẩm “sạch”. KCN được thiết kế theo một chủ đề môi trường nhất định (ví dụ KCNST năng lượng tái sinh, tái tạo tài nguyên). KCN với hệ thống hạ tầng kỹ thuật (HTKT) và công trình xây dựng bảo vệ môi trường. Khu vực phát triển hỗn hợp (công nghiệp, thương mại, ở,…). 1.2 Sinh thái công nghiệp (STHCN)_ (Industrial Ecology): Khái niệm Sinh thái công nghiệp (STCN - Industrial Ecology) được biết đến vŕi năm trước đây, đặc biệt từ khi xuất hiện bŕi báo của Frosch và Gallpoulos phát hành theo số báo đặc biệt của tờ Scientific American (Frosch và Gallpoulos, 1989). Khái niệm STCN thể hiện sự chuyển hóa mô hình hệ công nghiệp truyền thống sang dạng mô hình tổng thể hơn - hệ STCN (industrial ecosystem). Trong đó, chất thải hay phế liệu từ quy trình sản xuất này có thể sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình sản xuất khác. Trong khu công nghiệp sinh thái cơ sở hạ tầng công nghiệp được thiết kế sao cho chúng có thể tạo thŕnh một chuỗi những hệ sinh thái hòa hợp với hệ sinh thái tự nhiên trên toàn cầu. Khái niệm STCN còn được xem xét ở khía cạnh tạo thành mô hình hệ công nghiệp bảo toàn tài nguyên là chiến lược có tính chất đổi mới nhằm phát triển công nghiệp bền vững bằng cách thiết kế những hệ công nghiệp theo hướng giảm đến mức thấp nhất sự phát sinh chất thải và tăng đến mức tối đa khả năng tái sinh - tái sử dụng nguyên liệu và năng lượng. STCN là một hướng mới tiến đến đạt được sự phát triển bền vững bằng cách tối ưu hóa mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên và năng lượng đồng thời giảm thiểu sự phát sinh chất thải. Hay nói cách khác, khái niệm STCN cňn bao hàm tái sinh, tái chế, tuần hoàn các loại phế liệu, giảm thiểu chi phí xử lý, tăng cường việc sử dụng tất cả các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm bao gồm cả sản xuất sạch hơn vŕ xử lý cuối đường ống. Ở đây sản xuất sạch hơn là hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức cơ sở sản xuất riêng lẻ, trong khi đó STCN hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức hệ công nghiệp. GIA CÔNG CHẾ BIẾN NGUYÊN LIỆU XỬ LÝ CHẤT THẢI KHU VỰC TIÊU THỤ NGUYÊN LIỆU, NĂNG LƯỢNG NGUYÊN THUỶ Sơ đồ chức năng của sinh thái công nghiệp Mặc dù khái niệm STCN vẫn còn "non trẻ" và chưa có một định nghĩa thống nhất, tuy nhiên có thể thấy sự nhất trí rằng khái niệm STCN thể hiện những quan điểm chính sau đây: 1. STCN là sự tổ hợp toàn diện và thống nhất tất cả các thành phần của hệ công nghiệp và các mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh. 2. STCN nhấn mạnh việc xem xét các hoạt động do con người điều khiển sao cho có thể phát triển công nghiệp theo hướng bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. 3. STCN xem quá trình tiến hóa (cải tiến) công nghệ sản xuất là yếu tố quan trọng để chuyển tiếp từ hệ công nghiệp không bền vững hiện tại sang hệ STCN bền vững trong tương lai. Cơ sở hình thành khái niệm STCN là dựa trên hiện tượng trao đổi chất công nghiệp (industrial metabolism). Đó là toàn bộ các quá trình vật lý chuyển hóa nguyên liệu và năng lượng cùng với sức lao động của con người thành sản phẩm, phế phẩm và chất thải ở điều kiện ổn định. Khái niệm này giúp chúng ta hiểu được hoạt động của hệ công nghiệp với mối quan hệ tương hỗ của chúng đối với môi trường xung quanh. Trên cơ sở đó, cùng với những hiểu biết về hệ sinh thái, con người có thể hiệu chỉnh hệ công nghiệp sao cho tương thích với hoạt động của hệ sinh thái tự nhiên. Bằng cách làm như vậy, các cơ sở sản xuất công nghiệp có thể được tổ hợp thành những hệ STCN. Những hệ STCN này sẽ bao gồm nhiều cơ sở sản xuất được tập hợp sao cho chúng sử dụng sản phẩm và chất thải của nhau. Những kiến thức cơ bản về quá trình trao đổi chất công nghiệp với hệ STCN là cơ sở để hiểu rõ và ứng dụng những nguyên lý cơ bản của khái niệm STCN. 1.3 Quá trình trao đổi chất công nghiệp_industrial metabolism: Quá trình trao đổi chất công nghiệp thể hiện sự chuyển hóa của dòng vật chất và năng lượng từ nguồn tài nguyên tạo ra chúng, qua quá trình chế biến trong hệ công nghiệp, đến người tiêu thụ và cuối cùng thải bỏ. Trao đổi chất công nghiệp cung cấp cho chúng ta khái niệm cơ bản về quá trình chuyển hóa hệ thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hiện tại theo hướng phát triển bền vững. Đây là cơ sở cho việc phân tích dòng vật chất, xác định và đánh giá các nguồn phát thải cũng như các tác động của chúng đến môi trường. 1.4 Quá trình trao đổi chất công nghiệp so với quá trình trao đổi chất sinh học: Sự giống nhau giữa quá trình trao đổi chất sinh học và trao đổi chất công nghiệp là: "Các quá trình trao đổi chất có thể được chia thành 2 nhóm chính: quá trình đồng hóa và quá trình dị hóa. Cũng như thế, một hệ STCN tổng hợp vật chất, hay thực hiện quá trình đồng hóa, và phân hủy vật chất, tức là thực hiện quá trình tương tự như quá trình dị hóa sinh học". Trong một hệ sinh học, quá trình trao đổi chất xảy ra ở tế bào, ở các cơ quan riêng biệt cũng như trong toàn bộ cơ thể sinh vật. Tương tự như vậy, quá trình trao đổi chất công nghiệp cũng có thể xảy ra trong từng cơ sở sản xuất riêng biệt, trong từng ngành công nghiệp và ở mức toàn cầu. Điểm cốt yếu là phải xác định rő phạm vi mà dòng vật chất và năng lượng tham gia vào quá trình chuyển hóa (xem bảng 1). Bảng 1. Sự khác nhau giữa sinh vật sốngvà cơ sở sản xuất Sinh vật sống Cơ sở sản xuất Sinh vật có khả năng tái sản sinh ra chúng.Sinh vật có tính đặc trưng và không thể thay đổi đặc tính của chúng trừ khi trải qua quá trěnh tiến hóa lâu dài. Cơ sở sản xuất chỉ tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ phục vụ.Cơ sở sản xuất có thể thay đổi từ mặt hàng sản xuất cũng như dịch vụ thương mại từ dạng này sang dạng khác. Một cơ sở sản xuất chuyển hóa nguyên liệu, bao gồm cả nhiên liệu và năng lượng, thành sản phẩm, phế phẩm và chất thải. Nguồn: Ayres, 1994 Trao đổi chất sinh học là quá trình tự điều chỉnh. Đối với từng sinh vật, quá trình này được thực hiện bởi những cơ chế sinh học chung. Ở mức hệ sinh thái, quá trình này xảy ra thông qua sự đấu tranh sinh tồn giữa các sinh vật. Một hệ STCN cũng là một hệ tự điều chỉnh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ chế chính của quá trình là hệ kinh tế được vận hành theo quy luật cung - cầu". Một cách tổng quát, những điểm giống và khác nhau giữa quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên và hệ công nghiệp được trình bày tóm tắt trong bảng 2. Trong hệ sinh thái tự nhiên, chu trình sinh học của vật liệu được duy trì bởi 3 nhóm chính: sản xuất, tiêu thụ và phân hủy. Nhóm sản xuất có thể là cây trồng và một số vi khuẩn có khả năng tự tạo ra nguồn thức ăn cần thiết cho bản thân chúng nhờ quá trěnh quang hợp hoặc để cung cấp năng lượng và protein cần thiết cho cơ thể chúng. Nhóm phân hủy có thể là nấm và vi khuẩn. Nhóm này có khả năng chuyển hóa các chất hữu cơ thành nguồn thức ăn cần thiết cho nhóm sản xuất. Do đó, nhóm phân hủy cũng đóng vai trò của cơ sở tái chế. Với nguồn năng lượng là ánh nắng mặt trời, thế giới tự nhiên có khả năng duy trì chu trình sản xuất - tiêu thụ- phân hủy một cách vô hạn. Hay nói cách khác, một thực thể tồn tại độc lập nhỏ nhất cũng là một hệ sinh thái. Trong các hệ công nghiệp, hoạt động sản xuất bao gồm tạo ra năng lượng và những sản phẩm khác. Nhóm tiêu thụ sản phẩm có thể là những nhà máy khác, con người (thị trường) và động vật. Quá trình phân hủy bao gồm xử lý, thu hồi và tái chế chất thải. Tuy nhiên, khác với hệ sinh thái tự nhiên, hệ công nghiệp không thể dựa vào nhóm phân hủy để tái sản sinh hoàn toàn vật liệu đã sử dụng trong quá trình sản xuất. Hiện tại, hệ công nghiệp vẫn thiếu nhóm phân hủy và tái chế hiệu quả. Đó là lý do tại sao những vật liệu không mong muốn (cả chất thải và phế phẩm) được thải ra môi trường xung quanh. Xét theo khía cạnh này, hệ công nghiệp là một hệ thống không hoặc ít khép kín. Để đạt tiêu chuẩn của một hệ STCN, các sản phẩm phụ và chất thải phải được tái sử dụng và tái chế. Chu trình vật chất. Dòng vật chất và năng lượng là hai yếu tố quan trọng trong quá trình trao đổi chất công nghiệp. Trong hệ công nghiệp hiện tại, có hai hình thức sử dụng nguyên liệu. Dạng thứ nhất gọi là hệ trao đổi chất một chiều. Trong hệ thống này không có sự liên hệ giữa nguyên vật liệu cung cấp cho hệ thống và sản phẩm tạo thành. Quá trình sản xuất, sử dụng và thải bỏ vật chất xảy ra không đi kèm theo hoạt động tái sử dụng hoặc thu hồi năng lượng với nguyên liệu. Dạng thứ hai có đặc tính tái sử dụng tối đa dạng vật chất trong chu trình sản xuất nhưng vẫn cần cung cấp nguyên vật liệu và vẫn tạo ra chất thải cần thải bỏ. Trên cơ sở hiểu biết quá trình trao đổi chất công nghiệp, chúng ta có thể tối ưu hóa hệ công nghiệp để tăng đến mức tối đa hiệu quả sản xuất, giảm thiểu chất thải và hạn chế đến mức thấp nhất ô nhiễm môi trường bằng cách tự tạo chu trěnh vật chất khép kín. Điều đó có nghĩa là chu trình vật chất có thể được khép kín càng nhiều càng tốt theo phương thức mà vật liệu không cần thiết phải di chuyển quá xa đến nơi sử dụng/tái sử dụng. Như vậy, thị trường tiêu thụ phế phẩm/phế liệu/ chất thải tại địa phương cần được phát triển để chuyển hóa những vật liệu thải này thành sản phẩm có giá trị hơn. Bảng 2: Đặc điểm quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên và hệ công nghiệp hiện tại Đặc tính Hệ sinh thái tự nhiên Hệ công nghịêp hiện đại Đơn vị cơ bản Sinh vật Nhà máy Dòng vật chất Hệ khép kín Chủ yếu là biến đổi theo một chiều Tái sử dụng Hầu như hoàn toàn Thường rất thấp Vật liệu Có khuynh hướng cô đặc, chẳng hạn CO2 trong không khí được chuyển hóa thŕnh sinh khối qua quá trình quang hợp Hầu như được sử dụng một cách phung phí để chế tạo ra vật liệu khác, vật liệu bị pha loăng quá mức có thể tái sử dụng, nhưng lại bị cô đặc đủ để gat ô nhiễm Quá trình tái tạo Một trong những chức năng chính của sinh vật là sự tự sinh sản Sản xuất ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ là mục đích chủ yếu của hệ công nghiệp nhưng tái sản xuất không phải là bản chất của hệ công nghiệp Nguồn: Manahan, 1999. 1.5 Hệ sinh thái công nghiệp (industrial ecosystem): Các thành phần chính của hệ STCN. Hệ STCN được tạo thành từ tất cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, kết hợp cả sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Bốn thành phần chính của hệ STCN bao gồm: (1) cơ sở sản xuất nguyên vật liệu và năng lượng ban đầu, (2) nhŕ máy chế biến nguyên liệu, (3) nhà máy xử lý/tái chế chất thải và (4) tiêu thụ thành phẩm (hình 3). Cơ sở sản xuất nguyên liệu và năng lượng ban đầu có thể gồm một hoặc nhiều nhŕ máy cung cấp nguyên liệu ổn định cho hệ STCN. Qua nhiều quá trěnh chế biến, ví dụ trích ly, cô đặc, phân loại, tinh chế,... các nguyęn liệu thô sẽ được chuyển hóa thŕnh nguyên liệu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tái sinh tái chế (trong chính dây chuyền sản xuất hiện tại của nhà máy hoặc ở những nhà máy khác). Sản phẩm, phế phẩm, sản phẩm phụ,... sẽ được chuyển đến người tiêu dùng. Trong tất cả các trường hợp, sản phẩm sau khi sử dụng sẽ được thải bỏ hoặc tái chế. Cuối cùng, nhà máy xử lý chất thải sẽ thực hiện công tác thu gom, phân loại và xử lý các vật liệu có khả năng tái chế cũng như chất thải. Các dạng hệ STCN. Một hệ STCN sẽ tận dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ của các nhà máy khác nhau trong hệ thống và cả các thành phần không phải là cơ sở sản xuất, ví dụ từ các hộ gia đình thuộc khu dân cư nằm trong khuôn viên của hệ thống đang xét. Bằng cách này, lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu thụ cũng như lượng chất thải phát sinh sẽ giảm do chất thải/phế phẩm được sử dụng để thay thế một phần nguyên liệu và năng lượng cần thiết. Có thể phân chia hệ STCN theo 5 dạng khác nhau dựa trên ranh giới của hệ thống. Tiêu chí để xác định ranh giới của hệ STCN lŕ dựa trên vị trí địa lý hoặc chuỗi sản phẩm/nguyên liệu. Các loại hình hệ STCN này có thể mô tả như sau: - Hệ STCN theo chu trình vòng đời sản phẩm. Trong trường hợp này, ranh giới của hệ STCN được xác định theo các thŕnh phần kinh tế (cả nhà sản xuất và người tiêu dùng) liên quan đến một loại sản phẩm cụ thể. - Hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu. Tương tự hệ sinh thái theo chu trình vòng đời sản phẩm, ranh giới của hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu được xác định bởi các thŕnh phần liên quan đến một loại nguyên liệu cụ thể. - Hệ STCN theo diện tích/vị trí địa lý. KCN Burnside ở Halifax (Canada), KCN Kalunborg (Đan Mạch) là những thí dụ điển hình về loại hình hệ STCN này. Trong trường hợp này, ranh giới địa lý không kể đến khu vực tiêu thụ sản phẩm. - Hệ STCN theo loại hình công nghiệp. Theo cách phân loại này, một nhóm các cơ sở sản xuất thuộc cùng loại hình công nghiệp hợp thành hệ STCN. Trong thực tế, loại hình hệ STCN này được xây dựng theo định hướng môi trường chung của từng loại hình công nghiệp. - Hệ STCN hỗn hợp. Trong trường hợp này, khái niệm hệ STCN không đề cập đến một ranh giới cụ thể mà chỉ xem xét mối tương quan giữa các nhà máy có thể sử dụng phế phẩm/phế liệu của nhau. Đây là loại hình thông dụng nhất. 2. Lợi ích KCNST mang lại: 2.1 Lợi ích cho công nghiệp: Khi KCNST được xây dựng thì đối với các DNTV và chủ đầu tư KCNST có các nguồn lợi sau: Giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả sản xuất bằng cách: tiết kiệm, tái chế, tái sử dụng nguyên vật liệu và năng lượng, tái chế và tái sử dụng chất thải. Điều đó sẽ làm tăng tinh s cạnh tranh của sản phẩm. Đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ chia sẽ chi phí cho các dịch vụ chung như: quản lý chất thải rắn, đào tạo nhân lực, nguồn cung cấp, hệ thống thông tin môi trường cùng các dịch vụ hổ trợ khác. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin, tư vấn và bí quyết công nghệ. Giải pháp toàn diện trong sự phát triển KCNST giúp các doanh nghiệp này vượt qua các rào cản và nhận được các nguồn đầu tư để phát triển. Những lợi ích cho các DNTV cũng làm tăng giá trị bất động sản và lợi nhuận cho chủ đầu tư. Đối với nền công nghiệp nói chung: KCNST là một động lực phát triển kinh tế công nghiệp của toàn khu vực: gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thu hút đầu tư, tăng việc làm,… Tạo điều kiện hổ trợ và phát triển những ngành công nghiệp nhỏ địa phương. Thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới. Tóm lại, KCNST có thể mang lại các lợi thế cạnh tranh và lợi ích quan trọng trong thời điểm mà các KCN ở các nước châu Á không đáp ứng được nhu cầu phát triển công nghiệp thời đại mới. 2.2 Lợi ích môi trường: Giảm các nguồn gây ô nhiễm môi trường, giảm lượng chất thải cũng như giảm nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên thông qua các nghiên cứu mới về sản xuất sạch, bao gồm: hạn chế ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải, tái tạo tài nguyên và các phương pháp quản lý môi trường và công nghệ mới khác. Đảm bảo cân bằng sinh thái: quá trình hình thành và phát triển của KCNST(từ lựa chon địa điểm, quy hoạch, xây dựng, hệ thống HTKT, lựa chọn doanh nghiệp, quá trình hoạt động, quản lý,…) điều phù hợp với các điều kiện kinh tế và đặc điểm sinh thái của khu vực xây dựng và khu vực xung quanh. Phấn đấu vì mục tiêu ngày càng cao về môi trường: mỗi một K