Đề tài Xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã để trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Hiện nay khi xác định phát triển kinh ết là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng ta xem xét cán bộ và công tác cán bộ là lĩnh vực quan trọng bậc nhất, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đất nước đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, trong bối cảnh có nhiều vận hội, thời cơ lớn cần ra sức tận dụng, đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thử thách cần phải vượt qua, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội từ Trung ương đến cơ sở đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn. Chỉ có chủ động xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh Đảng mới có đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức toàn dân thực hiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị lần thứ III Ban chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã nhấn mạnh: phải gấp rút xây dựng chiến lược cán bộ chủ chốt các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo trên thực tế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước cũng như trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp xã hiện nay là một bộ phận không thể tách rời của chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc ta, làng, xã là nơi hội tụ và bảo lưu các giá trị văn hoá, tinh thần, vật chất của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, làng, xã đóng vai trò quan trọng: làng, xã là đơn vị hành chính, là chính quyền cấp cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng, có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Làng, xã đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống chính quyền nhà nước. “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã, thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã, huyện chia thành xã, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường.”. Quá trình xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước các cấp ở nước ta từ trước đến nay là một quá trình tìm tòi, thể nghiệm cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc phối hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương, quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau và quan hệ giữa HĐND và UBND ở từng cấp theo hướng tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động của địa phương. Trong cơ quan chính quyền địa phương các cấp, chính quyền cấp xã là cấp hành chính cơ sở, nơi trực tiếp tổ chức vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần 8 khoá VII đã khẳng định quan điểm “Kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách xã từng bước chuyên nghiệp hoá một số vị trí công tác ở xã, nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển cơ cấu kinh tế thị trường và từng bước hiện đại hóa nông thôn, kết hợp việc phát huy truyền thống tốt đẹp của làng xã mang tính cộng đồng, tự quản, tình làng nghĩa xóm với việc chấp hành nghiêm chính sách và pháp luật của Nhà nước”.

doc20 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3891 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã để trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: xây dựng, kiện toàn bộ máy chính quyền cấp xã để trực tiếp tổ chức, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mở đầu Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Hiện nay khi xác định phát triển kinh ết là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng ta xem xét cán bộ và công tác cán bộ là lĩnh vực quan trọng bậc nhất, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đất nước đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, trong bối cảnh có nhiều vận hội, thời cơ lớn cần ra sức tận dụng, đồng thời cũng có nhiều khó khăn, thử thách cần phải vượt qua, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng đội ngũ cán bộ cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội từ Trung ương đến cơ sở đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn. Chỉ có chủ động xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh Đảng mới có đủ năng lực lãnh đạo, tổ chức toàn dân thực hiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Hội nghị lần thứ III Ban chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã nhấn mạnh: phải gấp rút xây dựng chiến lược cán bộ chủ chốt các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo trên thực tế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước cũng như trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp xã hiện nay là một bộ phận không thể tách rời của chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc ta, làng, xã là nơi hội tụ và bảo lưu các giá trị văn hoá, tinh thần, vật chất của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, làng, xã đóng vai trò quan trọng: làng, xã là đơn vị hành chính, là chính quyền cấp cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng, có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Làng, xã đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống chính quyền nhà nước. “Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã, thành phố trực thuộc Trung ương chia thành quận, huyện và thị xã, huyện chia thành xã, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường...”. Quá trình xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước các cấp ở nước ta từ trước đến nay là một quá trình tìm tòi, thể nghiệm cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc phối hợp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ. Giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương, quan hệ giữa các cấp chính quyền với nhau và quan hệ giữa HĐND và UBND ở từng cấp theo hướng tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động của địa phương. Trong cơ quan chính quyền địa phương các cấp, chính quyền cấp xã là cấp hành chính cơ sở, nơi trực tiếp tổ chức vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần 8 khoá VII đã khẳng định quan điểm “Kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách xã từng bước chuyên nghiệp hoá một số vị trí công tác ở xã, nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển cơ cấu kinh tế thị trường và từng bước hiện đại hóa nông thôn, kết hợp việc phát huy truyền thống tốt đẹp của làng xã mang tính cộng đồng, tự quản, tình làng nghĩa xóm với việc chấp hành nghiêm chính sách và pháp luật của Nhà nước”. Để phát huy vai trò và hiệu quả của quản lý chính quyền cấp xã về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội trên địa bàn nhà nước đã cụ thể hoá thành pháp lệnh và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp, trong đó có cấp xã. Theo hướng phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, xã hội, đời sống, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương, quản lý địa giới hành chính. Tuỳ vào điều kiện kinh tế và xã hội từng thời kỳ mà chức năng nhiệm vụ của chính quyền cấp xã được qui định cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay của đất nước thì chức năng, nhiệm vụ đó càng được tăng cường và quan trọng hơn bao gồm: Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn và tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Lập, chấp hành và quyết toán ngân sách xã theo luật định. Phối hợp với các cơ quan hữu quan thu thuế, phí ở lại địa phương và các khoản theo qui định của pháp luật. Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của xã trên nguyên tắc tự nguyện. Tổ chức và hướng dẫn thực hiện các chương trình, kế hoạch, đề án. Khuyến khích phát triển về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo qui định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất; hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo qui hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ các bệnh dịch đối với cây trồng và vật nuôi. Tổ chức việc xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ của xã; tổ chức thực hiện việc tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương. Lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của xã; quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương. Xây dựng và quản lý các công trình công cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện, nước theo qui hoạch đã được duyệt. Quản lý, sắp xếp chợ và các điểm buôn bán, dịch vụ ở địa phương. Phối hợp với các cơ quan hữu quan chống buôn lậu, trốn thuế, sản xuất và lưu hành hàng giả tại địa phương. Tổ chức các hoạt động văn hoá, thông tin, nghệ thuật, thể dục thể thao; tổ chức thực hiện việc hướng dẫn các lễ hội truyền thống, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh ở địa phương, vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; ngăn chặn việc truyền bá văn hoá phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục, phòng chống các tệ nạn xã hội và những biểu hiện không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương. Tổ chức thực hiện chính sách, chế độ đối với thương binh, bệnh binh, gia đình có công với nước; thực hiện công tác cứu tế xã hội, hoạt động nhân đạo, từ thiện ở địa phương và vận động nhân dân giúp đỡ các gia đình khó khăn, người già, người tàn tật, trẻ mô côi không nơi nương tựa, tổ chức các hình thức nuôi dưỡng, chăm sóc các đối tượng nuôi dưỡng. Tổ chức huấn luyện quân sự phổ thông, tuyên truyền, giáo dục, xây dựng quốc phòng toàn dân. Thực hiện công tác nghĩa vụ quân sự, công tác tuyển quân theo kế hoạch. Tổ chức thực hiện việc xây dựng, huấn luyện, sử dụng lực lượng dân quân tự vệ ở địa phương. Thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, thực hiện chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với các lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương. Thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương. Tổ chức thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện biện pháp phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương. Tổ chức thực hiện các biện pháp thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, bảo vệ tính mạng, nhân phẩm... và các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Quyết định xử lý vi phạm hành chính theo qui định của pháp luật. Như vậy, cùng với những qui định có tính chất, nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND, Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp đã được xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước ở từng lĩnh vực cụ thể. Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở trong hệ thống chính quyền bốn cấp của nhà nước ta, là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội, mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội đều diễn ra ở đó. Vì vậy, cấp xã có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, đó là nơi trực tiếp biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực trong cuộc sống. Là một cấp chính quyền ở nông thôn, vị trí chiến lược của cấp xã lại càng nổi bật, do đại bộ phận nhân dân ta sống ở nông thôn và làm nông nghiệp. Theo kết quả điều tra dân số ngày 1 – 4 – 1999, nước ta có 76.327.900 người, trong đó có 58.409.700 người chiếm 76,5% dân số của cả nước sống ở nông thôn. Hiện nay ở nước ta có 11,822 xã, phường, thị trấn trong đó chỉ có 519 thị trấn, 949 phường, còn lại có 10.354 xã nông thôn chiếm 87,58% tổng số xã phường thị trấn của cả nước. Điều đó cho thấy cấp xã có một vị trí hết sức chính trị ở nước ta. Mặt khác xã còn là nơi tập trung mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề, là nơi sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội mà trọng tâm là lương thực và thực phẩm. Xã cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp, đồng thời xã còn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho nhiều lĩnh vực ngành nghề góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chương trình kinh tế – xã hội lớn của Đảng. Nhận thức được vị trí tầm quan trọng của cấp xã, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc xây dựng xã thành những đơn vị vững mạnh. Qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ ác liệt, xã đã có những đóng góp quan trọng về sức người, sức của để làm nên những thắng lợi to lớn góp phần vào sự nghiệp thống nhất, độc lập Tổ quốc. Bước vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là thời kỳ thực hiện đường lối mới của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mở rộng quan hệ với các nước... thì việc xây dựng cấp xã vững mạnh về mọi mặt càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Với tầm quan trọng đó, trong sự nghiệp đổi mới Đảng ta đã quan tâm thoả đáng đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Tại hội nghị Trung ương lần thứ 5 khoá VII, Đảng ta đã ra nghị quyết chuyên đề về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. Đồng thời, Văn kiện trình đại hội IX của Đảng khẳng định: “Trong nhiều năm tới, vẫn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một trọng điểm cần tập trung chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết. Muốn tạo ra chuyển biến mạnh mẽ từ cơ sở nhất là cơ sở nông thôn, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Trong đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã. Chương 1 Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã - vấn đề cơ bản và cấp bách hiện nay. 1.1. Khái niệm và vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp xã. 1.1.1. Khái niệm Lãnh đạo, quản lý là một loại hình hoạt động xã hội quan trọng của con người trong cộng đồng, nhằm tổ chức thực hiện được mục tiêu mà con người hoặc xã hội đặt ra. Vậy thế nào là cán bộ? cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý? Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” xuất bản năm 1992 thì cán bộ có hai nghĩa: “1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước; 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ”. Ta có thể làm rõ hơn nội hàm của khái niệm cán bộ như sau: 1. Người làm công tác chuyên môn trong một cơ quan, một tổ chức của hệ thống chính trị, có trình độ từ cao đẳng trở lên (dưới đó là nhân viên). 2. Người làm công tác có chức vụ trong một tổ chức lãnh đạo, quản lý để tổ chức và phối hợp hành động của các thành viên trong một nhóm, một tập đoàn người nhằm giải quyết tốt các mối quan hệ công tác và đạt mục tiêu đã đề ra. Nghĩa thứ hai này chính là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô (trước đây) thì “cán bộ lãnh đạo” có hai nghĩa: - Thứ nhất: dùng để chỉ người đứng đầu hoặc cơ quan đầu não của một tổ chức, một phong trào. - Thứ hai: Là người làm thức tỉnh hành vi của người khác. “Cán bộ quản lý” cũng dùng để chỉ người đứng đầu một tổ chức, nhưng phụ trách những công việc nhằm thực hiện việc điều hành hoạt động của tổ chức để thực hiện các công việc đó. “Cán bộ quản lý” còn có nghĩa là “người sử dụng công cụ, phương tiện để điều khiển một hoạt động nào đó”. Nội hàm của khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý có những điểm giống và khác nhau. Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều phải nhận thức khách thể và tác động đến khách thể; chủ thể ra quyết định để điều khiển khách thể, trên cơ sở những đặc điểm thuộc tính, những qui luật của khách thể nhằm thực hiện mục đích nhất định. Người cán bộ lãnh đạo hay quản lý đều phải tiến hành quá trình điều khiển. Người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện một số chức năng quản lý và người quản lý cũng phải thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Trên ý nghĩa đó, cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý giống nhau. Tuy nhiên, trên phương diện khác cần phân biệt cán bộ lãnh đạo với cán bộ quản lý. Quá trình lãnh đạo chủ yếu là quá trình định hướng cho khách thể, còn quá trình quản lý chủ yếu là quá trình tổ chức, sắp xếp, bố trí để thực hiện định hướng của lãnh đạo. Quá trình lãnh đạo là quá trình làm thức tỉnh hành vi con người, định hướng hoạt động của con người và xã hội là chủ yếu. Trong lãnh đạo, con người vừa là khách thể vừa là chủ thể của mọi tác động. Đối tượng tác động của quản lý vừa có thể là con người nhưng lại vừa có thể là công cụ. Trong quản lý người cán bộ tác động mang tính điều khiển, vận hành thông qua thiết chế có tính pháp lệnh được qui định trước. Với ý nghĩa đó, chức năng quản lý là sự tiếp tục của chức năng lãnh đạo, là bước đi kế tiếp của lãnh đạo, là yếu tố, là khâu tất yếu để sự lãnh đạo được thực hiện. Có quan niệm về quản lý theo nghĩa rộng. Với quan niệm đó thì lãnh đạo là một bộ phận của quản lý. Trong tiểu luận này, tác giả sử dụng khái niệm lãnh đạo, quản lý theo khái niệm hẹp nêu trên. Có thể khẳng định: Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người lãnh đạo, quản lý theo một hệ thống từ thấp đến cao trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang... của Đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân dân ở Trung ương, địa phương cơ sở. Hay nói cụ thể hơn: đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã là những người lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang và các đoàn thể chính trị – xã hội ở xã. 1.1.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã. Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong một chặng đường hơn 70 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Vai trò của người cán bộ thể hiện trong các mối quan hệ: một là, với đường lối chính sách: hai là, với tổ chức bộ máy (các cơ quan lãnh đạo, quản lý); ba là, với công việc; bốn là, với quần chúng. Có cán bộ tốt mới có thể đề ra được đường lối chính sách và nhiệm vụ chính trị đúng. Từ đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng mới có thể sản sinh ra đội ngũ cán bộ tốt. Cán bộ được đào tạo rèn luyện và trưởng thành mới thi hành đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng. Đây là mối quan hệ nhân quả. Cán bộ cũng có vai trò quyết định đối với đường lối nhiệm vụ chính trị. Đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực tốt mới có thể đề ra đường lối đúng, mới cụ thể hoá, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, mới có thể thực hiện tốt đường lối. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng không thể thành hiện thực trong cuộc sống. Tức là cán bộ quyết định sự thành bại của bản thân đường lối. Trong mối quan hệ với tổ chức bộ máy, đây là mối quan hệ biện chứng, quan, quan hệ nhân quả: Cán bộ là nhân tố chủ yếu, nhân tố hàng đầu và là nhân tố “động” nhất của tổ chức. Cán bộ là người lập ra tổ chức và điều hành bộ máy, tổ chức. Song, đến lượt mình, cán bộ lại chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ chức. Tổ chức quyết định phương hướng và hành động của cán bộ. Tổ chức mạnh khiến từng người mạnh và từng người mạnh khiến cả tổ chức mạnh. Nòng cốt, hạt nhân để xây dựng tổ chức là đội ngũ cán bộ và đó cũng là trung tâm đoàn kết và tập hợp của tổ chức. Người cán bộ chỉ có vai trò trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân, ngoài cái đó thì nhân dân không cần đến họ, có cách mạng mới cần người lãnh đạo và vì thế người lãnh đạo phải vì sự nghiệp cách mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân. Phong trào cách mạng của quần chúng làm sản sinh những cán bộ t. Đó là môi trường rèn luyện, thử thách sàng lọc cán bộ. Mặt khác cán bộ lại là người tuyên truyền, tổ chức, duy trì phong trào cách mạng quần chúng. Không thể có đội ngũ cán bộ tốt nếu không xây dựng và duy trì được phong trào cách mạng của quần chúng và cũng không thể có phong trào cách mạng sôi nổi, liên tục nếu không có đội ngũ cán bộ tốt. Như vậy, bất cứ người cán bộ nào cũng bị ràng buộc trong bốn mối quan hệ đó, chỉ khi nào hoàn thành được sứ mệnh do các quan hệ đó đòi hỏi thì người cán bộ mới có vai trò. Vì vậy mà cơ cấu cán bộ chỉ được coi là hợp lý nếu đồng thời đáp ứng yêu cầu của các quan hệ đó. Từ mối quan hệ này mà định tiêu chuẩn cán bộ và đánh giá cán bộ. Rõ ràng, bất cứ lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cũng rất quan trọng đối với với sự nghiệp cách mạng. Đối với cấp xã, vai trò đó được thể hiện trên các phươn diện sau: - Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện sáng tạo các nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng ở nông thôn, đội ngũ này tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị, góp phần rất quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước. Vai trò này chẳng những thể hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức cùng với các chức vụ của đội ngũ cán bộ cấp xã đảm nhiệm được quy định mà trong thực tế cho thấy mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cuối cùng đều do đội ngũ này thực hiện. Hoạt động gần dân, trực tiếp tiếp xúc với từng gia đình và từng người dân, đội ngũ cán bộ cấp xã là chỗ dựa của Đảng, nhà nước để lãnh đạo nông dân phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với nông dân – bộ phận chiếm 80% dân số - đưa tư tưởng của Đảng đến với dân và phản ánh tình hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Thông qua đội ngũ cán bộ này mà ý Đảng – lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và nhà nước có cơ sở bám rễ, ăn sâu trong quần chúng, tạo nên quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, trực tiếp xây dựng và củng cố niềm tin của nông dân đối với Đảng và chế độ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng của quần chúng sâu rộng ở nông thôn. Thực tế ở cấp xã cho thấy, sự mạnh, yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nơi đây. Đối với hệ thống bộ máy, họ là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống đó. Họ tác động quyết định đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, đến năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Hệ thống bộ máy ở cấp xã có hoàn thành được nhiệm vụ của mình hay không, trước hết tuỳ thuộc vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nơi đây. Có củng c