Đề tài Xây dựng quy trình làm phân compost từ rác thải hữu cơ quy mô hộ gia đình tại TP Hội An Tỉnh Quảng Nam

Trong xu thế phát triển kinh tế xã hội, với tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng và sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch .kéo theo mức sống của người dân càng cao đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, nan giải trong công tác bảo vệ môi trường và sức khoẻ của cộng đồng dân cư. Lượng chất thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của con người ngày một nhiều hơn, đa dạng hơn về thành phần và độc hại hơn về tính chất. Ở các đô thị lớn của Việt Nam, rác thải đã và đang gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Xử lý rác luôn là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý môi trường đô thị. Không riêng gì đối với các đô thị đông dân cư, việc lựa chọn công nghệ xử lý rác như thế nào để đạt hiệu quả cao, không gây nên những hậu quả xấu về môi trường trong tương lai và ít tốn kém chi phí luôn là nỗi bức xúc của các ngành chức năng. Việc xử lý chất thải sinh hoạt một cách hợp lý đã và đang đặt ra những vấn đề bức xúc đối với hầu hết các tỉnh, thành của nước ta. Hội An là một thành phố cổ tập trung nhiều khách du lịch thì vấn đề phát sinh ra rác thải cũng rất lớn, nên gây ra nhiều khó khăn trong việc thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt, và chủ yếu lượng rác thải phát sinh ra đó được công ty công trình công cộng thu gom và vận chuyển đến bãi rác gây ra tình trạng quá tải ở bãi rác Cẩm Hà và làm cho môi trường ở đây ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Trong lượng rác thải sinh hoạt phát sinh ra hằng ngày đó chủ yếu là rác thải từ nhà bếp mà trong thành phần của rác thải nhà bếp chủ yếu là rác thải hữu cơ dễ phân hủy gây mùi hôi thối gây ảnh hưởng đến môi trường không khí và sức khỏe của con người nơi đây. Tuy nhiên nếu chúng ta biết tận dụng nó và biến nó thành một sản phẩm mới để phục vụ cho đời sống của mình mà đặc biệt là sử dụng rác thải hữu cơ để làm phân compost sẽ giúp cho môi trường giảm thiểu được lượng rác thải, hạn chế được lượng phân hóa học trên cách đồng và giúp con người giảm chi phí trong sản xuất nông nghiệp. Xuất phát từ những tồn tại trên và sự cần thiết của việc phân loại rác tại nguồn để làm phân compost nên tôi đã chọn đề tài “Xây dựng quy trình làm phân compost từ rác thải hữu cơ quy mô hộ gia đình tại TP. Hội An Tỉnh Quảng Nam”

doc61 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 8228 | Lượt tải: 10download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng quy trình làm phân compost từ rác thải hữu cơ quy mô hộ gia đình tại TP Hội An Tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong xu thế phát triển kinh tế xã hội, với tốc độ đô thị hoá ngày càng tăng và sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch….kéo theo mức sống của người dân càng cao đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, nan giải trong công tác bảo vệ môi trường và sức khoẻ của cộng đồng dân cư. Lượng chất thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của con người ngày một nhiều hơn, đa dạng hơn về thành phần và độc hại hơn về tính chất. Ở các đô thị lớn của Việt Nam, rác thải đã và đang gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Xử lý rác luôn là vấn đề làm đau đầu các nhà quản lý môi trường đô thị. Không riêng gì đối với các đô thị đông dân cư, việc lựa chọn công nghệ xử lý rác như thế nào để đạt hiệu quả cao, không gây nên những hậu quả xấu về môi trường trong tương lai và ít tốn kém chi phí luôn là nỗi bức xúc của các ngành chức năng. Việc xử lý chất thải sinh hoạt một cách hợp lý đã và đang đặt ra những vấn đề bức xúc đối với hầu hết các tỉnh, thành của nước ta. Hội An là một thành phố cổ tập trung nhiều khách du lịch thì vấn đề phát sinh ra rác thải cũng rất lớn, nên gây ra nhiều khó khăn trong việc thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt, và chủ yếu lượng rác thải phát sinh ra đó được công ty công trình công cộng thu gom và vận chuyển đến bãi rác gây ra tình trạng quá tải ở bãi rác Cẩm Hà và làm cho môi trường ở đây ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Trong lượng rác thải sinh hoạt phát sinh ra hằng ngày đó chủ yếu là rác thải từ nhà bếp mà trong thành phần của rác thải nhà bếp chủ yếu là rác thải hữu cơ dễ phân hủy gây mùi hôi thối gây ảnh hưởng đến môi trường không khí và sức khỏe của con người nơi đây. Tuy nhiên nếu chúng ta biết tận dụng nó và biến nó thành một sản phẩm mới để phục vụ cho đời sống của mình mà đặc biệt là sử dụng rác thải hữu cơ để làm phân compost sẽ giúp cho môi trường giảm thiểu được lượng rác thải, hạn chế được lượng phân hóa học trên cách đồng và giúp con người giảm chi phí trong sản xuất nông nghiệp. Xuất phát từ những tồn tại trên và sự cần thiết của việc phân loại rác tại nguồn để làm phân compost nên tôi đã chọn đề tài “Xây dựng quy trình làm phân compost từ rác thải hữu cơ quy mô hộ gia đình tại TP. Hội An Tỉnh Quảng Nam” CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU Trong cuộc sống hằng ngày, con người không chỉ tiêu thụ và sử dụng một số lượng lớn các nguyên liệu, thực phẩm để tồn tại và phát triển, mà đồng thời cũng vứt thải cho thiên nhiên và môi trường sống những lượng rác thải có nguy cơ hủy hoại môi trường.Trong số lượng rác thải được vứt bỏ đó thì thành phần của rác thải nhà bếp chiếm một phần lớn gây ảnh hưởng trực tiếp trở lại đời sống con người, làm phát sinh nhiều bệnh tật và đặc biệt là lượng rác ngày càng nhiều thì sẽ chiếm một diện tích lớn đất chôn lấp, làm mất cảnh quan môi trường. 1.1 ĐỊNH NGHĨA RÁC THẢI NHÀ BẾP Nói một cách khái quát dễ hiểu thì rác thải nhà bếp đó là các chất rác từ nguyên liệu thực phẩm, thức ăn thừa, hoa quả và vỏ trái cây, bánh kẹo, hoa lá trang trí trong nhà đã bị héo…mà con người không dùng được nữa… vứt bỏ vào môi trường sống. Theo định nghĩa khoa học thì đó là những thành phần tàn tích hữu cơ của các chất hữu cơ phục vụ sinh hoạt sống của con người. Chúng không được con người sử dụng nữa và vất thải trở lại môi trường sống, gọi là rác thải nhà bếp.[4] 1.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA RÁC THẢI NHÀ BẾP - Rác thải nhà bếp hằng ngày chiếm một khối lượng và tỷ lệ rác thải rất lớn so với các loại rác thải vô cơ khác - Rác thải nhà bếp là những vật liệu dễ phân hủy, và gây thối rửa - Rác thải nhà bếp khó được thu gom phân loại riêng tại nguồn, gây khó khăn cho việc xử lý rác. - Rác thải nhà bếp sẽ khó được tận dụng tái chế thành phân hữu cơ nếu không được phân loại tại nguồn.Vì vậy cần phải được thu gom và phân loại riêng trong những túi chất liệu đặc biệt dễ phân hủy. Với thành phần, và đặc điểm của rác thải nhà bếp như trên thì con người chúng ta không ngừng nâng cao hiểu biết và tìm ra những phương pháp hữu hiệu nhất để góp phần nâng cao đời sống và đặc biệt là bảo vệ môi trường sống của nhân loại.Và để xử lý được rác thải nhà bếp người ta đã ứng dụng nhiều nhà máy chế biến phân compost, các nhà máy tái chế rác thải sinh hoạt… Với xu hướng xử lý rác thải thân thiện với môi trường thì mô hình sản xuất phân compost từ rác thải nhà bếp với quy mô hộ gia đình là một trong những biện pháp không những giúp giảm thiểu được tổng lượng rác thải mà còn tạo cho người dân chúng ta bắt đầu tiếp xúc với việc nghiên cứu khoa học. Sản xuất ra lượng phân compost phục vụ trong nông nghiệp của từng địa phương [4] 1.3 ĐỊNH NGHĨA PHÂN COMPOST Phân compost hay còn gọi là phân hữu cơ vi sinh là sản phẩm phân bón được tạo thành thông qua quá trình lên men vi sinh vật các hợp chất có nguồn gốc khác nhau, có tác động của vi sinh vật hoặc các hợp chất sinh học được chuyển hóa thành mùn. Tùy thuộc vào nhu cầu của sản xuất mà có thể cân đối phối trộn các phân liệu sao cho cây trồng phát triển tốt nhất mà không cần phải bón bất kỳ các loại phân nào. Phân vi sinh có thể dùng để bón lót hoặc bón thúc. Loại phân này có hàm lượng dinh dưỡng cao nên khi bón trộn đều với đất. Nếu sản xuất phù hợp cho từng loại cây trồng thì đây là loại phân hữu cơ tốt nhất.[12] 1.4 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LÀM PHÂN COMPOST [8] Ngoài sự có mặt của những sinh vật cần thiết, những yếu tố chính ảnh hưởng lên quá trình sản xuất compost có thể được 03 nhóm chính là: nhóm những yếu tố dinh dưỡng, môi trường và vận hành. Bảng 1.1: Điều kiện tối ưu cho quá trình ủ phân compost Các thông số Khoảng hợp lý Khoảng tối ưu nhất Kích thước vật liệu (cm) 1-8 4-5 Tỷ lệ dinh dưỡng C/N (%) 20-40 25-30 Độ ẩm (%) 40-65 52-58 Độ PH 5,5-9 6-8 Nhiệt độ( 0C) 40-65 50-55 Nồng độ oxy (%) >5 Lớn hơn 5 1.4.1 Các yếu tố dinh dưỡng. 1.4.1.1 Nguyên tố đa lượng và vi lượng * Nguyên tố đa lượng như: C, N, P, Ca, và K. * Nguyên tố vi lượng như: Mg, Mn, Co, Fe, S … Trong thực tế, hầu hết chúng trở nên độc nếu nồng độ vượt quá mức cho phép. Hầu hết những nguyên tố Mg, Co, Mn, Fe, S…có vai trò trong việc trao đổi tế bào chất. Cơ chất là nguồn cung cấp các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng và vi lượng cần thiết, trong thực tế muốn có lợi ích bắt buộc phần lớn hoặc tất cả cơ chất trong quá trình sản xuất compost đều là chất thải. 1.4.1.2 Tỷ lệ C/N Tỷ lệ C:N là hệ số dinh dưỡng chính. Trong sản xuất compost, tỷ lệ này vào khoảng 20:1 đến 25:1. Nếu tỷ lệ C:N vượt quá giới hạn vừa nêu, tốc độ phân hủy sẽ bị chậm lại. Ngược lại, nếu tỷ lệ thấp hơn 20:1, N bị thất thoát (Bởi vì, N dư chuyển hóa thành NH3). Giai đoạn chuyển hóa tích cực trong sản xuất compost có đặc điểm là nồng độ PH và nhiệt độ khá cao. Tương quang C/N nhỏ dần cho đến khi tỷ lệ nitơ cố định và nitơ khoáng hoá như nhau. Sau một quá trình dài, tỷ lệ C/N của phần còn lại sẽ bằng với tỷ lệ của vi sinh vật. Bảng 1.2 : Hàm lượng N và tỷ lệ C:N có trong những loại rác thải và chất thải khác nhau Chất thải Hàm lượng N Tỷ lệ C/N Bùn hoạt tính 5 6 Máu 10-14 3 Phân bò 1,7 18 Bùn đã phân hủy 2-6 4-28 Mỡ cá, bã cá 6,5-10 5,1 Rác trái cây 1,5 34,8 Cỏ bị xén 3-6 12-15 Phân ngựa 2,3 25 Cỏ hỗn hợp 214 19 Phân bắc 5,5-6,5 6-10 Rác rau củ, không kể các loại rau đậu 2,5-4 11-12 Phân heo 3,8 4-19 Thân, lá khoai tây 1,5 25 Phân gia cầm 6,3 15 Bùn tươi 4-7 11 Mùn cưa 0,1 200-500 Rơm, yến mạch 1,1 48 Rơm, lúa mì 0,3-0,5 128-150 Nước tiểu 15-18 0,8 1.4.2 Những yếu tố môi trường Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình sản xuất compost là nhiệt độ, độ ẩm và pH. Chúng có thể là từng yếu tố hoặc nhiều yếu tố kết hợp lại, góp phần quyết định tốc độ và mức độ phân hủy. 1.4.2.1 Nhiệt độ Nhiệt độ tối ưu cho quá trình sinh hóa là 40-550C. Vì mỗi loài vi sinh vật đều có nhiệt độ tối ưu để sinh trưởng và phát triển. Trong đó, khi nhiệt độ cao đối với đống ủ thì tốc độ ủ sẽ nhanh và không khí được tuần hoàn trong đống ủ thì oxy sẽ luôn luôn có mặt. Sự giải phóng CO2 tối đa xảy ra ở nhiệt độ 550C. Nó bắt đầu tăng từ từ trong khoảng từ 25 đến 400C, sau đó tăng từ 45 – 550C. Nhiệt độ cao đối với đống ủ thì tốc độ, mức ủ sẽ nhanh. Nếu nhiệt độ trên 650C quá trình sản xuất compost sẽ bị ảnh hưởng xấu một cách nghiêm trọng. Lý do là vi sinh vật hình thành bào tử tại mức nhiệt độ cao hơn 650C và chúng sẽ rơi vào giai đoạn nghỉ hoăc chết. Vì vậy phương pháp sản xuất compost hiện nay sử dụng quy trình vận hành được thiết kế tránh nhiệt độ cao hơn 600C. Lưu ý, cần tránh hiện tượng quá khô,quá lạnh ở phần nào đó của đống ủ. 1.4.2.2 Độ pH pH có ý nghĩa quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật, ion H+ và OH- là hai ion hoạt động mạnh nhất, những biến đổi nồng độ của chúng dù là rất nhỏ đều có ảnh hưởng rất lớn đến tế bào vi sinh vật. Cho nên việc xác định PH thích hợp ban đầu là rất quan trọng. PH tối ưu là 6-8. Vào giai đoạn đầu, độ pH là 6,3 sau đó giảm xuống còn 4,8 và cuối cùng tăng lên pH = 9. Quá trình sản xuất compost độ pH thường bị giảm xuống ở giai đoạn đầu vì những phản ứng tạo thành acid hữu cơ. Đường biểu diễn độ pH sau đó tăng lên tương ứng với vi sinh vật sử dụng những acid vừa sinh ra trong giai đoạn trước. Ở giai đoạn đầu pH giảm xuống không gây ức chế đối với hầu hết các vi sinh vật, vì thế để nâng pH người ta dùng Ca(OH)2 để cải thiện điều kiện vật lý của khối ủ, một phần hoạt động như vật liệu hút ẩm. 1.4.2.3 Yếu tố độ ẩm Việc sản xuất compost từ rác thải đô thị có một đặc điểm quan trọng là mối quan hệ mật thiết giữa độ ẩm và không khí, cơ sở của mối quan hệ này dựa trên thực tế là nguồn oxi chủ yếu cần cung cấp cho quần thể vi khuẩn đó là không khí giữ lại trong những khe hở giữa những chất thải. Việc khuyết tán oxi trong không khí và bên trong khối chất thải để thỏa mãn nhu cầu oxi của vi sinh vật là không quan trong lắm. Bởi vì, trong các khe hở giữa những chất thải có chứa độ ẩm tự do trong khối ủ giữa độ ẩm và oxi phải có một sự căn bằng. Theo đó, nếu ở mức cao hơn nữa sự thiếu oxi sẽ diễn ra và tình trạng kỵ khí sẽ bắt đầu phát triển. Tầm quan trọng của việc giữ độ ẩm của cơ chất từ 40%– 45% thường bị coi nhẹ trong quá trình sản xuất compost. Điều này thực chất rất quan trọng bởi vì độ ẩm thấp hơn sẽ kìm hãm hoạt động của vi khuẩn và tất cả vi khuẩn sẽ ngừng hoạt động ở độ ẩm 12%. 1.4.2.4 Hệ thống vi sinh vật Vi sinh vật có một đóng góp vô cùng quan trọng đến thời gian ủ phân compost. Với một hệ thống vi sinh vật được tuyển chọn tốt thì không những thời gian ủ được rút ngắn mà chất lượng phân bón cũng đảm bảo hơn. Các vi sinh vật có mặt trong quá trình ủ phân compost bao gồm vi khuẩn, nấm, men, khuẩn tia,… Người ta xác định hầu hết các loài trong nhóm VSV nêu trên đều có khả năng phân giải gần hết các hữu cơ thô trong rác thải. Tất nhiên mỗi một loài sinh vật có khả năng tốt nhất để phân hủy một dạng chất hữu cơ nào đó. Thí dụ nấm men , khuẩn tia …, hoạt động rất mạnh đối với cellulose và hemicellulose. Quá trình trao đổi chất là hiện tượng phổ biến trong ủ phân rác và một yếu tố khác là sự giải nhiệt do hoạt động đồng hóa và dị hóa của VSV để tạo ra mùn. 1.4.3 Vận hành Việc kiểm soát tốt các điều kiện môi trường ảnh hưởng tới hoạt động của vi sinh vật chính là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình ủ compost. Kiểm soát tốt quá trình ủ compost cũng giúp giảm phát sinh mùi ô nhiễm và loại bỏ các mầm vi sinh vật gây bệnh. Vì vậy các giải pháp kỹ thuật trong công nghệ ủ compost hiện đại đều hướng tới mục tiêu kiểm soát tối ưu các điều kiện môi trường cùng với khả năng vận hành thuận tiện. 1.4.3.1 Làm thoáng và kích thước nguyên liệu. Kích thước nguyên liệu là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới thời gian ủ phân compost.Việc làm giảm kích thước nguyên liệu sẽ góp phần làm gia tăng tốc độ phân hủy. Đối với nguyên liệu thô kích thước tối ưu là từ 5-8cm. Đảo trộn mục đích làm đồng đều, điều hòa nhiệt độ và độ ẩm của vật liệu, tránh tạo cột không khí cũng như việc tạo ra các bánh cứng. Tốc độ ủ phụ thuộc vào kích thước vật liệu và quá trình đảo trộn rất lớn. 1.4.3.2 Sự thông khí Thông thường áp lực tĩnh là 0,1 - 0,15 mm cột nước, cần tạo ra để đẩy không khí qua chiều sâu từ 2 - 2,5 m vật liệu, áp lực đó chỉ cần quạt gió là đủ chứ không cần máy nén. Sự phân phối O2 cho bể ủ là rất cần thiết bởi vi sinh vật hiếu khí cần O2, trung bình lượng O2 tiêu thụ là 4,2 g O2/1 kg rác/ngày, nghĩa là khoảng 4m3O2/1 tấn rác/ngày. Sự sản sinh CO2 tương đương với lượng O2 tiêu thụ. Tỷ lệ O2 tiêu thụ không ổn định, phụ thuộc vào nhiệt độ, sự thay đổi trong thành phần, mức độ ủ chín và kích thước nguyên liệu. So sánh với phương pháp sản xuất compost kỵ khí, phương pháp sản xuất compost hiếu khí có rất nhiều ưu điểm: • Sự phân huỷ xảy ra nhanh hơn. • Nhiệt độ cao đủ để làm chết những mầm bệnh. • Số lượng và nồng độ khí hôi thối giảm mạnh. Mùi khó chịu là vấn đề không thể tránh trong xử lý và thải bỏ chất thải. Để cải thiện đáng kể nồng độ và sự tập trung mùi trong sản xuất compost hiếu khí cần cung cấp đủ nhu cầu Oxi cho quần thể vi khuẩn hoạt động bằng cách sử dụng quy trình thông khí thích hợp. Khí sinh ra có thể được kiểm soát bằng cách thu khí từ khối ủ compost do quá trình phân hủy và xử lý chúng bằng hệ thống xử lý hoá học hay sinh học, nhờ vậy mùi hôi khó chịu sẽ giảm. 1.4.3.3 Tốc độ thông khí Tốc độ thông khí sao cho khối compost duy trì hiếu khí phụ thuộc bản chất và cấu trúc của các thành phần cuả rác thải và tùy thuộc vào phương pháp thông khí. Tốc độ tiêu thụ oxy tùy thuộc không chỉ nhiệt độ mà còn phụ thuộc vào kích thước vật liệu, quần thể vi sinh vật và mức độ xáo trộn. Nhu cầu oxy trong thời tiết ấm sẽ cao hơn trong lúc lạnh. Để đạt được kết quả tôt nhất, nên giữ nhiệt độ ban đầu là 45-50O trong một số ngày đầu, sau đó tăng lên 55-70OC để cho giai đoạn lên men diễn ra mạnh. Lượng không khí cần thiết phải cung cấp cho vi sinh vật phát triển trong quá trình ủ hiếu khí. 1.5 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SẢN XUẤT PHÂN COMPOST TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.5.1 Tình hình nghiên cứu và sản xuất phân compost trên Thế Giới Sự ra đời của và phát triển của phân compost Lịch sử quá trình ủ compost đã có từ rất lâu, ngay từ khi khai sinh của nông nghiệp hàng nghìn năm trước Công nguyên, ghi nhận tại Ai Cập từ 3.000 năm trước Công nguyên như là một quá trình xử lý chất thải nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Người Trung Quốc đã ủ chất thải từ cách đây 4.000 năm, người Nhật đã sử dụng compost làm phân bón trong nông nghiệp từ nhiều thế kỷ. Tuy nhiên đến năm 1943, quá trình ủ compost mới được nghiên cứu một cách khoa học và báo cáo bởi Giáo sư người Anh, Sir Albert Howard thực hiện tại Ấn Độ. [10] Phân compost được Noble Hilter sản xuất đầu tiên tại Đức năm 1896 và đặt tên là Nitragin. Sau đó phát triển sản xuất tại một số nước như Mỹ, canada, Anh và Thụy Điển. Nitragin là loại phân được chế tạo bởi vi khuẩn Rhizobium, do Beijernk phân lập năm 1888 và được Fred đặt tên vào năm 1989 dùng để bón cho các loại cây trồng thích hợp, kể cả họ đậu. Từ đó cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu nhằm ứng dụng và mở rộng việc sản xuất phân bón trên nền chất mang hữu cơ khác nhau. Các kết quả từ Mỹ, Canađa, Nga, Nhật, Trung Quốc, Ấn độ, Thái Lan …cũng cho thấy sử dụng phân compost có thể cung cấp cho đất và cây trồng từ 30 đến 60kg nitơ/ hecta đất, một năm có thể thay thế từ 1/3 đến 1/2 lượng phân bón hóa học [2] Hiện nay đã có nhiều tài liệu viết về quá trình ủ compost và nhiều mô hình công nghệ ủ compost quy mô lớn được phát triển trên thế giới.Các mô hình công nghệ ủ compost quy mô lớn hiện nay trên thế giới được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Theo trạng thái của khối ủ compost tĩnh hay động, theo phương pháp thông khí khối ủ cưỡng bức hay tự nhiên, có hay không đảo trộn.[10] Ở các vùng của Mỹ và Canađa có khí hậu ôn đới thường áp dụng phương pháp xử lý rác thải ử đống tĩnh có đảo trộn như sau: Rác thải được tiếp nhận và tiến hành phân loại. Rác thải hữu cơ được nghiền và bổ sung vi sinh vật, trộn với bùn và đánh đống ở ngoài trời. Chất thải được lên men từ 8-10 tuần lễ, sau đó sàng lọc và đóng bao [5] Tiếp nhận rác Loại bỏ tạp chất không hữu cơ Lên men từ 8 -10 tuần Nghiền hữu cơ Đánh luốn Sàng xử lý chất hữu cơ Bổ sung vi sinh vật Chôn lấp chất trơ Bùn Đóng bao phân bón Hình 1.1: Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt của Mỹ và Canada Ở Đức thì rác thải ở các gia đình đã được phân loại, ở những nơi công cộng phân loại chưa triệt để, được tiếp nhận và tiến hành phân loại rác tiếp. Rác hữu cơ được đưa vào các thiết bị ủ kín dưới dạng các thùng chịu áp lực cùng với thiết bị thu hồi khí sinh ra trong quá trình lên men phân giải hữu cơ. Tiếp nhận rác thải sinh hoạt Phân loại Hút khí Lọc Rác thải vô cơ Tái chế Chôn lấp chất trơ Rác hữu cơ lên men Phân hữu cơ vi sinh Hình 1.2. Sơ đồ dây chuyền công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt của Đức Ở Trung Quốc những thành phố lớn thì thường áp dụng công nghệ trong các thiết bị kín. Rác được tiếp nhận đưa vào thiết bị ủ kín sau 10-12 ngày, hàm lượng các khí CH4, SO2, H2S…. giảm đựợc đưa ra ngoài ủ chín. Sau đó mới tiến hành phân loại, chế biến thành phân bón hữu cơ Tiếp nhận rác thải Thiết bị chứa có bổ sung vi sinh vật, thu nước thải trong thời gian 10-12 ngày Ủ chính, độ ẩm 40%, thời gian từ 15-20 ngày Sàn phân loại theo kích thước Vật vô cơ Phân loại sản phẩm để tái chế Chôn lấp chất trơ Phân loại theo trọng lượng bằng không khí có thu kim loại Phối trộn các nguyên tố khác N,P,K và các nguyên tố khác Ủ phân bón trong thời gian 5-10 ngày Đóng bao tiêu thụ sản phẩm Hình 1.3. Công nghệ xử lý rác sinh hoạt Trung Quốc 1.5.2 Tình hình nghiên cứu và sản xuất phân compost ở Việt Nam Lịch sử phát triển nông nghiệp Việt đã trải qua thời kỳ canh tác hữu cơ. Đó là thời kỳ mà ngành công nghiệp hóa học chưa phát triển, các loại phân hữu cơ chưa xuất hiện nhiều trên thị trường, nhất là các nước nghèo và lạc hậu như Việt Nam. Lúc đó, nền nông nghiệp Việt nam sản xuất chủ yếu dựa vào các nguồn phân hữu cơ nội tại là chính như: phân chuồng, bùn ao, phân xanh, xác bã mắm, phân dơi trong hang núi. Tuy nhiên,đó chỉ là gai đoạn canh tác nông nghiệp hữu cơ theo tình thế, còn lạc hậu và mất cân đối. Trong giai đoạn hiện nay với tốc độ phát triển khá nhanh mà nền khoa học sản xuất phân bón, ngoài việc đã sữ dụng khá nhiều các loại phân vô cơ thì Việt Nam đã, đang và sẽ ứng dụng các loại phân HCVS từ các nguồn khác nhau (nhập khẩu và chế biến trong nước) nhằm đóng qóp tích cực vào việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường do các nguyên liệu này gây ra.[11] Ở Việt Nam, phân compost cố định đạm cho cây họ đậu ntragin, phân compost phân giải lân phosphobacterin đã được nghiên cứu từ năm 1960.Nhưng tới năm 1987 trong chương trình 52D - 01- 03 thì quy trình sản xuất Nitragin trên nền chất mang than bùn mới hoàn thiện. Từ năm 1991, 10 đơn vị trong toàn quốc đã nghiên cứu phân compost cố định đạm. Ngoài nitragin cho cây họ đậu đỗ còn có mở rộng cho cây lúa và các cây họ đậu khác. Hai đơn vị đẫn đầu trong công tác nghiên cứu và ứng dụng phân compost là: Viện Công nghệ Sing học (Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia) và Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn). Hiện nay có nhiều tổ chức và cá nhân đã thành công trong việc nghiên cứu sản xuất phân compost trên những nền chất mang khác nhau và ứng dụng trên nhiều cây công nghiệp, nông nghiệp như: PGS – TS Đỗ Châu Thu, TS Nguyễn Ích Tâm cùng cộng sự của trung tâm Nghiên cứu và phát triển Nông nghiệp Bền vững thuộc trường Đại học Nông nghiệp I đã hợp tác với khoa Sinh học và kinh tế Nông nghiệp thuộc Đại học Udine (Italia) tiến hành đề tài: “Sản xuất phân cốpt từ rác thải hữu cơ sinh hoạt và phế thải nông nghiệp dùng làm phân bón cho 3 loại rau sạch ở ngoại ô thành phố như: rau ăn lá (cải bắp), rau ăn củ (củ cải), rau ăn quả (cà chua)’’. Các cán bộ trung tâm nghiên cứu phát triển cộng đồng Nông thôn đã sản xuất thành công loại phân compost đa chuẩn loại quy mô hộ gia đình trên nền nguyên liệu chủ yếu là rác thải, phế phẩm nông nghiệp, phân gia súc , bèo tây, hay thân cây
Luận văn liên quan