Đề tài Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Nhà nước là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”( ), nhưng lại “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị”( ). Vì thế, ngay từ khi nhà nước ra đời, con người đã không ngừng đi vào tìm hiểu bản chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quan điểm này chưa xác định đúng nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước,. C.Mác và Ph.Ăngghen, đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là những người đầu tiên đề xướng học thuyết khoa học về nhà nước. Học thuyết này sau này được V.I.Lênin phát triển ngày càng hoàn bị hơn. Học thuyết Mác - Lênin đã tìm ra đúng nguồn gốc vật chất của nhà nước và bản chất giai cấp của nhà nước. Học thuyết về nhà nước của hai ông đã thể hiện lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đồng thời đây là cơ sở khoa học để giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng nhà nước mới của mình - nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Do vậy, để xây dựng và ngày càng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chúng ta phải quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, thấy rõ sự cần thiết, nội dung và những vấn đề có tính nguyên tắc là những bảo đảm quan trọng để chúng ta thực sự xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9931 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Nhà nước là “một trong những vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất”(), nhưng lại “là một vấn đề rất cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị”(). Vì thế, ngay từ khi nhà nước ra đời, con người đã không ngừng đi vào tìm hiểu bản chất của hiện tượng phức tạp này. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quan điểm này chưa xác định đúng nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước,... C.Mác và Ph.Ăngghen, đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, là những người đầu tiên đề xướng học thuyết khoa học về nhà nước. Học thuyết này sau này được V.I.Lênin phát triển ngày càng hoàn bị hơn. Học thuyết Mác - Lênin đã tìm ra đúng nguồn gốc vật chất của nhà nước và bản chất giai cấp của nhà nước. Học thuyết về nhà nước của hai ông đã thể hiện lợi ích của giai cấp vô sản, phục vụ sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đồng thời đây là cơ sở khoa học để giai cấp công nhân và nhân dân lao động xây dựng nhà nước mới của mình - nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Do vậy, để xây dựng và ngày càng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chúng ta phải quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước. Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của đất nước. Do vậy, thấy rõ sự cần thiết, nội dung và những vấn đề có tính nguyên tắc là những bảo đảm quan trọng để chúng ta thực sự xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. NỘI DUNG I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC 1. Một số quan niệm ngoài mác xít về nguồn gốc, bản chất nhà nước Vấn đề nguồn gốc, bản chất của nhà nước luôn là đối tượng của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Đồng thời đây cũng là một trong những vấn đề khó nhất đã trở thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và mọi tranh luận chính trị. Từ thời cổ, trung đại đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra những quan niệm khác nhau về nguồn gốc, bản chất nhà nước. Thuyết thần học cho rằng: Thượng đế sáng tạo ra nhà nước để bảo vệ trật tự chung, do vậy nhà nước là lực lượng siêu nhiên, quyền lực nhà nước là vĩnh cữu và sự phục tùng quyền lực nhà nước cần thiết và tất yếu. Trong khi đó, Thuyết gia trưởng lại tìm cách chứng minh rằng nhà nước là sản phẩm phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người. Như vậy, nhà nước có trong mọi xã hội, về bản chất quyền lực nhà nước cơ bản như quyền lực của người đứng đầu gia đình. Đến thời kỳ cận đại đã xuất hiện hàng loạt quan niệm mới về nhà nước của các học giả tư sản nhằm chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của nhà nước phong kiến. Đa số các học giả tư sản tán thành quan điểm cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước được ký kết trước hết giữa những người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Do đó, nhà nước phản ánh lợi ích của cách thành viên trong xã hội và phục vụ và bảo vệ lợi ích của các thành viên. Thuyết khế ước là tiền đề cho thuyết dân chủ cách mạng và là cơ sở tư tưởng cho cách mạng tư sản để lật đổ ách thống trị phong kiến. Tuy vây, thuyết này vẫn còn những hạn chế căn bản là giải thích nguồn gốc, bản chất nhà nước trên lập trường duy tâm, coi sự ra đời của nhà nước là do ý chí của các bên tham gia khế ước, không giải thích được nguồn gốc vật chất và bản chất xã hội của nhà nước. Tiêu biểu cho Thuyết khế ước xã hội là các nhà tư như: J.Bôđin (1530 - 1596), T.Hốpben (1588 - 1679), J.Lốccơ (1632 - 1704), Môngtéckiuơ(1689 - 1775),... Ngoài các quan niệm trên, còn có nhiều học thuyết khác luận giải về bản chất và nguồn gốc của nhà nước như: Thuyết bạo lực cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác, thị tộc giành chiến thắng tổ chức ra nhà nước để thực hiện việc thống trị của mình; Thuyết tâm lý lại cho rằng nhà nước ra đời do tâm lý của người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào thủ lĩnh của mình... Tóm lại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, lập trường duy tâm, lập trường giai cấp, điều kiện lịch sử,..., những học thuyết trên chưa giải thích đúng đắn nguồn gốc, bản chất của nhà nước. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước * Nguồn gốc, bản chất nhà nước Với quan niệm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước không phải là một hiện tượng xã hội vĩnh cữu và bất biến. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước luôn vận động, phát triển và sẽ “tự tiêu vong” khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa. Nhà nước không phải là một hiện tượng vĩnh viễn, bất biến, mà là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm của sự phát triển nội tại của xã hội. Nhà nước xuất hiện khách quan, nó là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước “không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội” mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã hội”, một lực lượng “tựa hồ như đứng trên xã hội”, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự”.() Nhà nước ra đời dưới sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có hai tiền đề quan trọng nhất: tiền đề kinh tế - chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và tiền đề xã hội - sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng không thể điều hòa được. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, trước hết là công cụ lao động, đã cho phép tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình. Lực lượng sản xuất phát triển cũng đưa đến sự dư thừa của cải tương đối trong xã hội, điều này đưa đến sự thèm khát chiếm đoạt ở những người đứng đầu bộ tộc, và như vậy, trong xã hội có sự phân hoá giàu nghèo và giai cấp xuất hiện, sự đối kháng giai cấp bắt đầu. Cùng với điều đó, chiến tranh ăn cướp giữa các bộ tộc làm cho quyền lực của thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cũng từ lúc này, cơ quan thị tộc, bộ tộc, ra đời từ chỗ gắn bó với nhân dân, dần tách khỏi nhân dân và quay trở lại thống trị nhân dân, áp bức nhân dân. Tất cả những điều kiện này làm cho mâu thuẫn trong xã hội ngày càng thêm sâu sắc, do đó giai cấp thống trị tổ chức ra một cơ quan để duy trì những mâu thuẫn đó trong vòng “trật tự” - nhà nước ra đời. Sự ra đời của nhà nước cụ thể ở các nơi trên thế giới cũng không hề giống nhau, do những đặc điểm về giai cấp, địa lý, kinh tế, truyền thống, tập quán, dân tộc,... khác nhau. Như vậy, sự ra đời của nhà nước không phải là cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa được. Đề cập đến vấn đề này, V.I. Lênin đã viết: “ Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”.() Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trước hết, nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp, thiết lập và duy trì xã hội trong vòng trật tự. Sự thống trị của giai cấp này đối với các giai cấp khác thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị và quyền lực tư tưởng. Trong ba loại quyền lực này, quyền lực kinh tế đóng vai trò quyết định, là cơ sở bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột mà phải thông qua quyền lực chính trị, với tổ chức đặc biệt của nó là nhà nước, để củng cố, tăng cường quyền lực của giai cấp thống trị. Và như vậy, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp cầm quyền đối với các giai cấp khác. Để khái quát hoá bản chất của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra nhiều luận điểm. Các luận điểm này đều khẳng định nhà nước là một bộ máy để thực hiện sự thống trị giai cấp. V.I.Lênin cho rằng nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Người giải thích rõ thêm: “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác”.() Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định bản chất và ý nghĩa xã hội của nhà nước. Nhà nước trước hết là bộ máy đặc biệt tách khỏi xã hội để thực hiện quyền lực mang tính cưỡng chế. Xét về mặt bản chất, nhà nước là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Cần phải thấy rằng, tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Nhưng bên cạnh đó, nhà nước còn thể hiện tính xã hội. Bởi lẽ, nhà nước mặt chủ yếu là bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, nhưng đồng thời còn phải chú ý (dù ít hay nhiều) đến lợi ích của toàn xã hội. Như vậy, từ những kiến giải trên, có thể hiểu nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy trấn áp của giai cấp thống trị nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp. * Đặc trưng và chức năng của nhà nước Theo Ph.Ăngghen, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đây là đặc trưng cơ bản của mọi nhà nước. Nhà nước đã lấy sự phân chia lãnh thổ làm điểm xuất phát và để cho công dân “thực hiện những quyền và nghĩa vụ của họ theo nơi cư trú, không kể họ thuộc thị tộc, bộ lạc nào”.() Thứ hai, nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm bộ máy quản lý hành chính và các lực lượng vũ trang đặc biệt mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đây là đặc trưng thể hiện quyền lực công cộng đặc biệt của nhà nước, không còn hoà nhập với dân cư nữa, mang tính chính trị và giai cấp. Để thực hiện quyền lực này nhà nước thiết lập một bộ máy cưỡng chế chuyên làm nhiệm vụ quản lý và “tựa hồ” như đứng trên giai cấp. Bộ máy này bao gồm quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù,... Thứ ba, nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi dưỡng bộ máy của mình. Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước cũng chỉ ra những chức năng cơ bản của nhà nước Chức năng của nhà nước được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau như chức năng đối nội, đối ngoại, chính trị, kinh tế, tư tưởng. Khi xem xét dưới góc độ tính chất của quyền lực nhà nước, nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Trong hai chức năng này, chức năng thống trị chính trị của giai cấp đóng vai trò quyết định. Khi xem xét dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại. Để thực hiện các chức năng của mình, nhà nước áp dụng nhiều hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau. Có ba hình thức hoạt động chính là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước sử dụng hai phương pháp chủ yếu để thực hiện chức năng của mình là: giáo dục - thuyết phục và cưỡng chế. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1. Khái lược lịch sử tư tưởng về nhà nước pháp quyền Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.() Nhà nước pháp quyền có bốn tiêu chí chung như sau: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật quy định; Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật); Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân. Nhà nước pháp quyền chỉ ra đời khi nhà nước tư sản ra đời, nhưng những tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử tư tưởng triết học và luật học. Từ thời cổ đại, mầm mống về tư tưởng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và ở phương Tây. Ở phương Đông, là tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng pháp gia như: Quản Trọng, Hàn Phi Tử,... Hàn Phi Tử coi “pháp” là chuẩn mực cao nhất của việc cai trị đất nước, khi thi hành pháp luật thì không kể đến tình cảm riêng, không câu nệ chuyện thân sơ, sang hèn, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Theo ông, "pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tránh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu".() Ở phương Tây, mầm mống tư tưởng pháp quyền ra đời chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của chế độ nông nô và phong kiến, bạo lực, lộng quyền và hỗn loạn là cái tương phản với công bằng, pháp luật, cần phải xoá bỏ. Các nhà tư tưởng pháp quyền thời kì này tiêu biểu là Sôlông (638 -559, TCN), Hêraclít (530 - 470, TCN), Xôcrát (469 - 399, TCN), Platôn (427 - 347, TCN), Arixtốt (384 - 322, TCN),... Xôcrát là người ủng hộ triệt để về nguyên tắc tư tưởng pháp chế. Ông cho rằng: công lý ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự công minh và sự hợp pháp đều là một; nếu không tuân thủ thì cũng không thể có nhà nước và trật tự pháp luật; nếu như các công dân của nhà nước nào tuân thủ pháp luật thì nhà nước đó sẽ vững mạnh và phồn vinh. Luận điểm của Platôn : "Ta nhìn thấy sự diệt vong của nhà nước, mà trong đó pháp luật không có sức mạnh và ở dưới quyền lực của ai đấy"() đã được khẳng định một cách đúng đắn trên thực tế của thế kỷ XX bằng sự sụp đổ của một loạt nhà nước cực quyền kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Arixtốt cho rằng yếu tố cấu thành cơ bản trong luật là sự phù hợp của tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền. Nếu không tuân theo pháp luật mà còn chà đạp lên pháp luật, nếu mưu toan thống trị bằng bạo lực dĩ nhiên là mâu thuẫn với tư tưởng pháp quyền. Thời trung cổ, đa số các nhà nghiên cứu cho rằng thời kì này không có mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền vì sự thống trị của thần quyền. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng vẫn có những mầm mống về nhà nước pháp quyền trong chính các nhà thần học.Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là tư tưởng tiến bộ hướng đến bình đẳng, công bằng, dân chủ... Đó là nguyện vọng, khát khao của con người, dù trong hoàn cảnh nào, trong xã hội nào, các thế lực thống trị có làm gì đi chăng nữa thì những tư tưởng đó vẫn tồn tại dưới hình thức này, hình thức khác. Tư tưởng pháp quyền trung cổ gắn liền với Saint Augustin (357 - 430) và Saint Thomas D'Aquin (1225 - 1247). Saint- Augustin cho rằng quyền lực nhà nước phải được thực hiện như một thứ quyền lực phục vụ. Đó là công cụ để thực hiện tình yêu và sự công bằng... Saint Thomas D'Aquin cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho con người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt đến sự dồi dào về vật chất, tinh thần; xã hội công dân sẽ thay thế xã hội thần dân. Ông chia ra bốn loại pháp luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, nhân luật và thần luật... Thời kỳ cận đại, tư tưởng về nhà nước pháp quyền thực sự có bước phát triển mới. Nó đã trở thành một học thuyết và đã trở thành hiện thực, được vận dụng ở một số quốc gia phương Tây. Sự phát triển lý luận học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản chịu ảnh hưởng của hai luồng tư tưởng: Một là, sự khẳng định ngày càng cao những quan điểm mới về tự do của con người, thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật - pháp luật tự nhiên. Hai là, xác lập mối tương quan giữa quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản đang lên và chế độ phong kiến đã lỗi thời. Thời kì này, học thuyết nhà nước pháp quyền được bổ sung, hoàn thiện, phát triển qua các giai đoan lịch sử khác nhau. Đó là lý thuyết về pháp quyền tự nhiên của các nhà triết học Hà Lan thế kỷ XVI - XVII với các đại diện: B.Spinôda (1632-1677), H.Grôtius (1583-1645); lý thuyết về tự do của các nhà duy vật Anh thế kỷ XVII với các đại diện như : J.Lốccơ (1632-1704), T.Hốpben (1588-1679), J.S.Mill (1806-1873); lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII với các đại diện: Môngtéckiuơ - người đưa ra học thuyết phân quyền được các nước tư sản sau này áp dụng dưới các hình thức khác nhau, Rốtxô (1712-1788) - người đưa ra lý thuyết về chủ quyền nhân dân và "khế ước xã hội"; lý thuyết về pháp quyền của các nhà triết học cổ điển Đức với các đại diện như: I.Cantơ (1724-1804), Hêghen (1770-1831)... "Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng các học thuyết này đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau: Sự hiện diện của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng thuận của người dân; nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật không hành động độc đoán; nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người và quyền công dân; quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giao cho ba cơ quan nhà nước tương ứng theo nguyên tắc quyền lực giám sát kiềm chế quyền lực".() Như vậy, đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền theo các học giả phương Tây là sự hiện diện của một chế độ dân chủ, trong đó nhà nước điều chỉnh các quan hệ quyền lực trong một hệ thống các chế định của nhà nước. Đồng thời với nhấn mạnh cơ chế chống lạm quyền, phải bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp luật. Nhà nước thiết lập các cơ quan của mình trên cơ sở bầu cử dân chủ theo luật... Nhà nước pháp quyền tư sản hiện nay, xét về bản chất cũng chỉ là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản mà thôi. Học thuyết nhà nước pháp quyền không phải là tài sản riêng của các triết gia tư sản mà còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù không chính thức đề cập đến nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong học thuyết của mình nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn quan tâm đến nhà nước và cách mạng, nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết, bài nói các ông ít nhiều đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Đó là những tư tưởng đầu tiên về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen được thể hiện trong các tác phẩm như: "Sự khốn cùng của triết học", "Phê phán triết học pháp quyền Hêghen"... C.Mác chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật chất của pháp luật, xã hội không lấy pháp luật làm cơ sở, đó chỉ là những ảo tưởng của những nhà triết học tư sản. Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý muốn tuỳ tiện của một cá nhân. Ông cho rằng trong chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật pháp tồn tại vì con người... “Thực tế, với việc trình bày luật pháp, quyền lực của luật pháp trong tương quan với sở hữu, sự phát triển, sự phát triển công, thương nghiệp với mỗi giai cấp, quan điểm của các ông là về tính giai cấp của pháp luật, pháp quyền nói riêng và nhà nước nói chung".() C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người, là sự phát triển toàn diện của con người. Có thể nói, vì con người và giải phóng con người là mục tiêu của một nhà nước pháp quyền kiểu mới. Hai ông chủ trương xác lập một chế độ dân chủ t
Luận văn liên quan