1/ Đặt vấn đề:
Với tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, việc các quốc gia tham gia vào việc trao đổi, giao thương với nhau là một việc thiết yếu và Việt Nam cũng không ngoại lệ đặc biệt là khi nước ta đã ra nhập tổ chức WTO. Nhận thấy sự cần thiết phải tham gia vào thương mại quốc tế, công ty TNHH VIETSEA đã quyết định xuất khẩu.
Ở Việt Nam với điều kiện thuận lợi về biển, các sản phẩm làm từ nguyên vật liệu có sẵn như sò, ốc rất độc đáo và được ưa chuộng ở nhiều nước. Đồng thời các mặt hàng này được phát triển như một nghề thủ công truyền thống được những khuyến khích phát triển và Canada được chúng tôi lựa chọn như là 1 thị trường có tiểm năng rất lớn.
Chính vì thế công ty VIETSEA đã quyết đinh chọn dự án “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm từ biển sang Canada” như là một bước khởi đầu cho tiến trình tham gia vào thương mại quốc tế.
2/ Mục đích chọn đề tài:
Tìm hiều các cơ sở thủ công mỹ nghệ sản xuất các mặt hàng làm từ biển cũng như tiềm năng phát triển bảo tồn các làng thủ công mỹ nghệ làm từ biển .Qua đó mở rộng hình ảnh các mặt hàng thủ nghề công mỹ nghệ làm từ biển Viêt Nam ra thị trưởng thế giới thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng này qua các nước phát triển trong đó có Canada một trong những khách hàng tiềm năng về hàng thủ công.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: các làng nghê, các cơ sở thủ công sản xuất hàng mỹ nghệ làm từ vở ốc, sò, nghêu.,. từ biển
Phạm Vi nghiên cứu :
- chủ thể: các cở sở thủ công ở các tỉnh miền biển như Vũng Tàu, Nha Trang, Phan Thiết
- Không gian: làng nghề thủ công sản xuất từ nguyên liệu là vở ốc, sò, nghêu từ biển
- Thời gian: Hiện nay
4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
+ Cung cấp tư liệu khoa học về sự tồn tại và phát triển của thủ công mỹ nghệ làm từ biển
Phân tích số liệu khoa học để làm cơ sở cho việc phát triển loại mặt hàng này
Ý nghĩa thực tiễn :
+ Dựa trên số liệu phân tích khoa học để từ đó có thể đưa ra các định hướng phát triển mở rộng việc xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới.
+ Từ những đóng góp của cơ sở, làng nghề mà có những chính sách, dịnh hướng cho sự phát triển của công ty trong tương lai.
59 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3063 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm từ biển sang Canada, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Đặt vấn đề:
Với tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, việc các quốc gia tham gia vào việc trao đổi, giao thương với nhau là một việc thiết yếu và Việt Nam cũng không ngoại lệ đặc biệt là khi nước ta đã ra nhập tổ chức WTO. Nhận thấy sự cần thiết phải tham gia vào thương mại quốc tế, công ty TNHH VIETSEA đã quyết định xuất khẩu.
Ở Việt Nam với điều kiện thuận lợi về biển, các sản phẩm làm từ nguyên vật liệu có sẵn như sò, ốc… rất độc đáo và được ưa chuộng ở nhiều nước. Đồng thời các mặt hàng này được phát triển như một nghề thủ công truyền thống được những khuyến khích phát triển và Canada được chúng tôi lựa chọn như là 1 thị trường có tiểm năng rất lớn.
Chính vì thế công ty VIETSEA đã quyết đinh chọn dự án “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ làm từ biển sang Canada” như là một bước khởi đầu cho tiến trình tham gia vào thương mại quốc tế.
2/ Mục đích chọn đề tài:
Tìm hiều các cơ sở thủ công mỹ nghệ sản xuất các mặt hàng làm từ biển cũng như tiềm năng phát triển bảo tồn các làng thủ công mỹ nghệ làm từ biển .Qua đó mở rộng hình ảnh các mặt hàng thủ nghề công mỹ nghệ làm từ biển Viêt Nam ra thị trưởng thế giới thông qua việc xuất khẩu các mặt hàng này qua các nước phát triển trong đó có Canada một trong những khách hàng tiềm năng về hàng thủ công.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: các làng nghê, các cơ sở thủ công sản xuất hàng mỹ nghệ làm từ vở ốc, sò, nghêu.,.. từ biển
Phạm Vi nghiên cứu :
chủ thể: các cở sở thủ công ở các tỉnh miền biển như Vũng Tàu, Nha Trang, Phan Thiết
Không gian: làng nghề thủ công sản xuất từ nguyên liệu là vở ốc, sò, nghêu… từ biển
Thời gian: Hiện nay
4/ Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
+ Cung cấp tư liệu khoa học về sự tồn tại và phát triển của thủ công mỹ nghệ làm từ biển
Phân tích số liệu khoa học để làm cơ sở cho việc phát triển loại mặt hàng này
Ý nghĩa thực tiễn :
+ Dựa trên số liệu phân tích khoa học để từ đó có thể đưa ra các định hướng phát triển mở rộng việc xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới.
+ Từ những đóng góp của cơ sở, làng nghề mà có những chính sách, dịnh hướng cho sự phát triển của công ty trong tương lai.
II/ PHẦN NỘI DUNG
2.1.Giới thiệu về công ty:
2.1.1/ Giới thiệu chung:
Công ty Xuất khẩu VIETSEA là công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên về các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, trang trí nội thất làm bằng tay có nguồn gốc từ biển bao gồm ốc biển, sơn mài, san hô, …Công ty VIETSEA được thành lập vào năm 2003 –. Trong suốt 5 năm trở lại đây công ty đã kinh doanh và sản xuất rất nhiều các mẫu mã, sản phẩm trang trí với nguyên liệu chủ yếu từ biển. Công ty đã từng bước chiếm được cảm tình của đa số khách hàng trong nước nhờ vào mẫu mã sản phẩm đa dạng, đẹp mắt, mới lạ và giá cả phải chăng.
Nhờ vào nguồn nguyên liệu dồi dào và bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, công ty luôn giao dịch với phương châm : “VIETSEA sản xuất sản phẩm chất lượng cao và giao hàng đúng hạn” vì vậy công ty đã không ngừng mỡ rộng thị trường và quy mô công ty.
Hiện nay công ty đang có kế hoạch mở rộng thị trường sang các nước ở Băc Mỹ, đăc biệt là Canada. Trong tương lai VNASEA mong muốn sẽ tiếp tục duy trì và mở rộng mối quan hệ làm ăn lâu dài với tất cả các đối tác trên thế giới.
2.1.2 Tên gọi và lĩnh vực hoạt động
Tên gọi đầy đủ : CÔNG TY TNHH VIETSEA
Tên giao dịch :VIETSEA EXPORT Ltd COMPANY
Tên thương mại viết tắt : VSEA.Co
Vốn điều lệ : 10 tỷ VNĐ
Diện tích : 100m2
Trụ Sở Chính : 320 Tôn Thất Thuyết. P Khánh Hội. Quận 4. TP Hồ Chí Minh
Điện Thoại : 0883731426 – 0883731425
FAX : 0883731564
Website : www.vietsea.com.vn
Email : vietsea@saigon.com.vn
2.3/ Sản phẩm xuất khẩu của công ty
Các sản phẩm của công ty với trên 700 mẫu mã khác nhau , chủ yếu là đồ dùng nội thất và các vật dụng trang trí như tranh ốc, ly, chén, đèn trang trí, bàn ghế, đồng hồ, hộp đựng nữ trang, chân nến, giỏ xách, chai, bình, con hổ, gấu, gà, ếch, cá…… ngoài ra còn có một số mặt hàng trang sức cho phụ nữ. các sản phẩm này hoàn toàn được làm từ thiên nhiên. Với nhưng chất liệu thân thiện với môi trường kêt hợp với những võ ốc, võ trai xinh xắn tạo nên những tác phẩm thủ công tinh xảo đẹp mắt.
2.4/ Slogan và logo của công ty:
a/ Logo của công ty
b/ Slogan của công ty là: “Wake up the sea”
3.1. Nghiên cứu thị trường Canada:
3.1.2. Sơ lược về thị trường Canada:
Vị trí địa lý: Canada là một quốc gia rộng lớn, nằm ở Bắc Mỹ, được bao bọc bởi biển Bắc Đại Tây Dương ở phía Đông, biển Bắc Thái Bình Dương ở phía Tây, biển Bắc Cực ở phía Bắc và tiếp giáp với Mỹ ở phía Nam.
Tổng diện tích: 9.970.610 km2, rộng thứ hai trên thế giới, trải dài qua sáu múi giờ. Lãnh thổ Canada kéo dài từ đỉnh Cape Columbia trên đảo Ellesmere (phía Bắc) đến Middle Land ở hồ Erie (phía Nam). Khoảng cách Đông – Tây chỗ lớn nhất là 5.514 km từ Cape Spear Newfounland đến biên giới Yukon – Alaska.
Địa hình: Do diện tích lãnh thổ rộng lớn và trải dài nên ở Canada có các yếu tố địa lý rất khác biệt như có nhiều vùng núi đá cao hiểm trở và các vùng thảo nguyên rộng lớn. Nhìn chung địa hình của Canada tương đối bằng phẳng, có núi ở phía Tây và các vùng đất thấp ở phía Đông Nam.
Khí hậu: Canada được đặc trưng bởi bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ thay đổi theo mùa, có lúc lên tới 30oC vào mùa hè hoặc xuống dưới tới -33oC vào mùa đông. Các yếu tố khác như độ ẩm và hơi lạnh của gió có thể làm cho thời tiết nóng hoặc lạnh hơn. Nhiệt độ giữa các vùng trên toàn lãnh thổ cũng có sự khác biệt: khu vực bờ biển phía Tây có khí hậu ôn đới; phía Bắc Atlantic lạnh hơn và thường có bão lớn vào mùa đông; vùng núi phía Tây, miền Trung và Praises lạnh hơn nhiều so với các vùng khác.
Thiên tai: Các cơn lốc xoáy từ phía Đông dãy núi Rocky do sự kết hợp các luồng khí lớn từ Bắc Cực, Thái Bình Dương và khu vực đất liền Bắc Mỹ là nguyên nhân chủ yếu gây ra mưa và tuyết ở Canada.
Những thành phố chính
Toronto, Quebec, Vancouver, Montreal, Calgary, Halifax…
3.1.2. Phân tích môi trường vĩ mô, vi mô
3.1.2.1. Môi trường vĩ mô:
1. Dân số và thành phần dân tộc
Dân số Canada tính đến tháng 5-2009 vào khoảng 33,659,151triệu người (là nước đông dân thứ 36 thế giới). Dù là một nước có diện tích lớn thứ hai thế giới – khoảng 10 triệu km² – nhưng mật độ dân số của Canada lại cực thấp – khoảng 4 người/km². Canada lớn hơn Hoa Kỳ nhưng dân số chỉ bằng 1/9 của Hoa Kỳ
Những cư dân đầu tiên của Canada là các dân tộc bản xứ mà người ta tin rằng đã đến từ Á Châu cách đây hàng chục ngàn năm trước bằng một con đường nối liền Siberia và Alaska. Vào khoảng đầu thế kỷ 10, người Viking có lập một chỗ cư trú tại bờ biển phía đông của Canada, di tích này vẫn còn tại Newfoundland.
Đến khoảng giữa thế kỷ 16, những nhà thám hiểm người Pháp và người Anh bắt đầu khám phá các vùng đất Bắc Mỹ, và các di dân Pháp và Anh bắt đầu khai khẩn, cư trú ở Canada vào đầu thế kỷ 17.
Mãi cho đến Đệ Nhị Thế Chiến, hầu hết dân nhập cư đều đến từ Anh, Scotland, Ireland và Đông Âu. Từ năm 1945, diện mạo văn hoá sắc tộc của Canada phát triển phong phú hơn do số lượng di dân từ Nam Âu, Nam Mỹ, những hòn đảo Caribbean, Á Châu và nhất là từ các nước trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương càng ngày càng tăng. Ngày nay dân Canada hầu như đến từ khắp nơi trên thế giới.
Theo kết quả điều tra dân số gần đây nhất, hơn 50% dân số có nguồn gốc không phải là Anh hay Pháp. Trong số đó, số người không phải là dân da trắng chiếm 13%; các thổ dân, chiếm 3%; gốc Scotland chiếm 14%; gốc Ireland chiếm 13%; gốc Đức chiếm 9,25% và gốc Ý 4,3%. Con số này sẽ còn tăng thêm nữa theo quá trình "toàn cầu hóa" hiện nay.
Canada là một đất nước đa văn hóa với cư dân từ khắp mọi nơi trên thế giới. Các nhóm dân tộc ở Canađa bao gồm:
Gốc Anh: 28%
Gốc Pháp: 23%
Gốc Châu Âu: 15%
Thổ dân 2%
Gốc Châu Á, Châu Phi và Ả Rập: 6%
Gốc khác: 26 %
2. Văn hóa:
Giới thiệu khái quát văn hóa:
Bản chất song ngữ và đa văn hóa của Canađa cộng với lịch sử của nó và môi trường phương Bắc đã kết hợp ảnh hưởng đến cấu trúc văn hóa Canada và cách người Canada biểu hiện mình thông qua nghệ thuật.
Việc tăng cường mạnh mẽ các hoạt động văn hóa trên khắp đất nước Canada trong những năm gần đây, nhờ có sự góp sức của cả các tổ chức tư nhân lẫn chính phủ, phản ánh tình trạng song ngữ, tính chất đa nguyên văn hóa và sự khác biệt giữa các vùng của đất nước này.
Sự phát triển của nền kinh tế từ năm 1950 đã giúp cho người dân có nhiều điều kiện luyện tập và thưởng thức các ngành nghệ thuật. Đồng thời, lượng người nhập cư đông đảo vào đất nước cũng góp phần gia tăng các tài năng về nghệ thuật tại Canada. Hầu hết chính quyền các tỉnh đều thành lập các quỹ tài chính hỗ trợ cho các hoạt động nghệ thuật và cho các tổ chức văn hoá trong khu vực của mình, một số vùng còn có uỷ ban tư vấn và hỗ trợ tài chính cho các hoạt động nghệ thuật của mình.
Nguồn gốc, các truyền thống, đặc điểm và thế giới quan của người Canada nói tiếng Anh rất khác nhau, trong khi những người Canađa nói tiếng Pháp là một cộng đồng thuần nhất hơn nếu xét về dân tộc, lịch sử và văn hóa. Văn hoá của những người Canada nói tiếng Anh có sự pha trộn giữa văn hoá Anh và văn hoá Mỹ, còn văn hoá của những người Canada nói tiếng Pháp lại có sự pha trộn giữa văn hoá Pháp và Mỹ. Nhìn chung, cách sinh sống, tổ chức gia đình, phong cách nấu nướng và ăn mặc của người Canada giống với người Mỹ hơn là người Anh và Pháp. Canada trở thành một thể khảm về văn hoá (a cultural mosaic) do mọi người dân nhập cư vào đất nước này đều có thể giữ lại đặc trưng văn hoá của dân tộc mình.
Tính phức tạp đa dạng về thành phần vùng miền và văn hoá của xã hội Canada cho thấy không có một cách sống đơn nhất nào đối với người Canada. Tuy nhiên, nhìn chung cũng có một số nét đặc trưng về đất nước Canada. Phần lớn người dân Canada có điều kiện ăn, mặc, ở tốt. Người Canada cũng được hưởng một hệ thống chăm sóc sức khoẻ rộng rãi và hiệu quả dành cho tất cả mọi người, bất kể họ sống khu vực, thu nhập hay địa vị xã hội của họ cao hay thấp.
a/ Sự tự tôn
• Cũng như nhiều nơi khác trên thế giới, người Canada tự hào về dân tộc, quốc gia, tôn giáo, ngôn ngữ hay các đặc điểm văn hóa của mình và họ có thể bị xúc phạm nếu có người không công nhận những điều đó
b/ Bắt tay
• Rất nhiều người ở Canada bắt tay rất chặt. Họ không cảm thấy thoải mái hoặc không đánh giá cao những người không siết tay một cách mạnh mẽ.
• Giữa những người ở vùng Quebec và các khu vực khác nói tiếng Pháp tại Canada, việc bắt tay trong môi trường bình thường lại có vẻ không thân thiện. Ôm nhẹ nhàng trong khi hôn lên má phù hợp hơn đối với bạn bè thân và gia đình. Phương cách này được áp dụng giữa nam và nữ và giữa hai phụ nữ với nhau. Nhưng lại không phải là cách chào hỏi thông thường giữa hai người nam.
c/ Tên và kính ngữ
• Người ở Canada thường gọi tên riêng khi gặp một ai đó theo phong cách mà ở những nơi khác bị cho là bất lịch sự. Điều này được xem là một cố gắng thân thiện hoặc chào đón đặc biệt.
• Những kính ngữ như “Ngài” (Sir) vẫn còn được dùng trong một số trường hợp. Trong công sở, những người chủ hay quản lý cao cấp thường được gọi bằng những từ như vậy, đặc biệt là khi có khoảng cách thế hệ giữa họ và hầu hết nhân viên trong công ty.
• “Madam” hầu như không được dùng trừ trường hợp mỉa mai, ngoại trừ ở Canada. Trong vùng Canada nói tiếng Pháp, Madam và Mrs được dùng hoán đổi cho nhau.
• “Ms” được dùng phổ biến dù người phụ nữ đã lập gia đình hay chưa. Mặc dù dùng từ này thường dẫn đến việc bị phê bình gay gắt trước kia (“Mrs chứ không phải Mss”), hiện nay lại được dùng phổ biến (thậm chí bởi những người lớn tuổi) như là một cố gắng tỏ ra lịch sự.
• Khi không biết tên người nói chuyện thì kính ngữ “Sir” và “Miss” (cho phụ nữ trẻ) hay “Madam” thường được dùng. “Mr.” dùng một mình (hay Mister) có thể nghe thô lỗ, hay xa lạ tùy trường hợp.
• Trong những trường hợp trang trọng giữa bạn bè hay những người lạ cùng một độ tuổi, người ta chấp nhận việc gọi người khác là “Man”. Điều này không tùy vào độ tuổi cả nam lẫn nữ đều có thể được gọi theo kiểu này. (Một số phụ nữ có thể bị xúc phạm khi bị dùng bằng một chữ để chỉ nam giới, vì vậy tốt nhất nên tránh gọi phụ nữ lạ mặt bằng từ này). Cách dùng “Man” như trên không quen thuộc với những người ở độ tuổi trung niên và càng hiếm hơn đối với lão niên. Chú ý là bất kỳ trường hợp nào cũng không được gọi một phụ nữ là “Woman”, vì sẽ bị hiểu nhầm là nghĩa xấu và kênh kiệu. d/ Ngôn ngữ:
Hai ngôn ngữ chính thức của Liên bang Canada là tiếng Anh và tiếng Pháp. Gần 60% dân Canada có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh, 22% là tiếng Pháp. Đại đa số người nói tiếng Pháp sống tại tỉnh bang Québec, sau đó là các tỉnh bang Ontario, News Brunswick và Manitoba.
Một số ngôn ngữ của các thổ dân cũng được xem là ngôn ngữ chính thức tại các lãnh thổ tự trị, đặc biệt là tiếng Inuktitut. Rất nhiều thứ tiếng của các thổ dân đã bị mai một hay đang đi đến tình trạng đó. Những tiếng khác được nhiều người nói là: tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông (Trung Quốc), tiếng Tây Ban Nha.
Tiếng Anh được sử dụng làm ngôn ngữ kinh doanh trên toàn lãnh thổ Canađa, mặc dù khả năng giao tiếp bằng tiếng Pháp cũng cần thiết để bán sản phẩm hoặc dịch vụ tại Québec.
3. Kinh tế:
Canada là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất trên thế giới và là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và nhóm G8. Canada có một nền kinh tế thị trường tự do tương đối giống Hoa Kỳ. Mặc dù trong cơ cấu kinh tế, khu vực dịch vụ rất phát triển với ba phần tư dân số làm việc trong lĩnh vực này, song khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và khai khoáng vẫn đóng vai trò quan trọng. Canada có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên lớn và phong phú gồm khí đốt, dầu lửa, vàng, uranium, kẽm, nhôm, chì, nicken và gỗ.
Không chỉ là một trong mười quốc gia hàng đầu trong công nghiệp sản xuất, Canada còn là một cường quốc kỹ thuật cao và công nghiệp dịch vụ. Với nền kinh tế tri thức cùng sự đa dạng về ngành nghề, kinh tế của Canada không ngừng lớn mạnh nhờ việc ứng dụng kỹ thuật cao cũng như không còn phụ thuộc vào nhiều vào tài nguyên thiên nhiên nữa.
Năm 2002 đến năm 2003, tổng sản phẩm quốc nội của Canada (GDP) tăng nhanh hơn so với các nước khác trong khối G8 và thị trường lao động phát triển tốt. Tiếp đến năm 2005, GDP của Canada tăng 2.9%. Kinh tế Canada vẫn tiếp tục phát triển với thị trường lao động bền vững, lãi suất thấp kỷ lục, tỉ lệ lạm phát luôn ổn định và được kiểm soát ở mức thấp nhất.
Phần lớn các ngành công nghiệp sản xuất của Canada nằm ở Ontario và Quebec. Và đây cũng là quê hương của ngành sản xuất xe hơi, ngành chiếm thị phần lớn nhất của nền công nghiệp Canada. Các ngành sản xuất quan trọng khác gồm thực phẩm và thức uống, giấy và các sản phẩm có cùng nguồn gốc, kim loại sơ chế, kim loại chế tạo, hóa dầu và hóa chất các loại.
Kinh tế Canada hiện đang suy thoái mạnh và nhiều khả năng sẽ trầm trọng như lần suy thoái đầu thập kỷ 1980 và 1990.
Tăng trưởng GDP:
Mức tăng GDP thực tế của Canada trong những năm gần đây dao động trong khoảng từ 2 đến 3,5%. Năm 2002, tăng trưởng GDP thực tế của Canada đạt 3,4%, cao hơn mức 2,2% của Hoa Kỳ. Năm 2003, mức này giảm xuống 2% do một loạt các cú sốc bất ngờ như dịch bệnh SARS, dịch bệnh bò điên và đồng dollar Canada tăng giá ảnh hưởng tới xuất khẩu. Tuy nhiên nhờ cơ sở kinh tế vững, tỷ lệ lãi suất thấp, môi trường kinh tế toàn cầu thuận lợi, và đặc biệt nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng tốt, nên năm 2004 nền kinh tế Canada lại tăng ở mức 2,7% và năm 2005 tăng 2,9%. Năm 2005, GDP của Canada đạt 1.035 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 34.000 USD
Lạm phát:
Trong vòng 5 năm qua, lạm phát giá tiêu dùng luôn được duy trì trong khoảng 1% - 3%; chỉ riêng vài tháng cuối năm 2003, chỉ số lạm phát vượt ra ngoài giới hạn 3% là do một số yếu tố tăng đột ngột như phí bảo hiểm ô tô, giá năng lượng và một số yếu tố đầu vào của sản phẩm tăng giá. Tuy nhiên, sau đó lạm phát đã trở lại mức giới hạn do các yếu tố trên bớt căng thẳng và đồng dollar Canada tăng giá so với dollar Hoa Kỳ. Năm 2005, tỷ lệ lạm phát là 2,2%.
Tỉ lệ thất nghiệp:
Năm 2005 là 6,8% trên tổng số lực lượng lao động là 16,3 triệu người. Tuy nhiên, theo Cơ quan Thống kê Canada, tỷ lệ thất nghiệp tại nước này đã tăng lên mức 7,7% trong tháng 2/09, tăng 0,5% so với tháng 1/09, với 82.600 người mất việc
Thương mại:
Canada là một trong số ít các nền kinh tế trên thế giới xuất khẩu ròng năng lượng nhờ vào trữ lượng khí đốt và dầu lớn thứ hai trên thế giới. Canada cũng là một trong số các nhà xuất khẩu nông sản quan trọng nhất trên thế giới, xuất khẩu chủ yếu là lúa mì và các loại hạt khác. Khu vực nông nghiệp, khai thác và chế biến khoáng sản của Canada phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế, đặc biệt là thương mại với Hoa Kỳ. Việc ký Hiệp định Tự do Thương mại với Hoa Kỳ năm 1989 và tham gia Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) năm 1994 đã làm cho hoạt động thương mại và hội nhập kinh tế của Canada tăng nhanh.
Tổng kim ngạch mậu dịch: Năm 2005 xuất khẩu đạt 364,8 tỷ USD, nhập khẩu là 317,7 tỷ USD
Cán cân thanh toán:
Sau những thâm hụt trong thập niên 90, tài khoản vãng lai của Canada đã được cải thiện rất nhiều và bắt đầu thặng dư 0,3% GDP vào cuối năm 1999; mức thặng dư này liên tục tăng trong những năm tiếp theo lên 2% GDP năm 2003 và đến quý I năm 2004 là 3% GDP. Năm 2005 đạt 24,96 tỷ USD.
Tỉ giá hối đoái:
Tiền tệ của Canada được phân loại dựa theo hệ thống thập phân, với 100 xu = 1 đô la Canada. Tiền xu được phát hành với mệnh giá bằng 2 đô la (a toonie), 1 đô la (a loonie) (tên hiệu của một loài chim lặn gavia trên đồng xu), 25 xu (a quarter), 10 xu (a dime), 5 xu (a nickel) và 1 xu (a penny). Tiền giấy được phát hành với mệnh giá 5$, 10$, 20$, 50$, 100$, 500$, 1000$.
Nếu đến Canada, bạn có thể đổi tiền tại các cơ quan tài chính Canada hoặc các gian hàng thu đổi ngoại tệ ở sân bay và các khu vực biên giới. Tuy nhiên, bạn cũng nên mang theo séc du lịch bằng đồng đô la Canada (có thể mua tại các ngân hàng lớn trong nước).
Xuất khẩu chủ yếu sang: Hoa Kỳ (chiếm tỷ lệ 84,1%), Nhật Bản (2,1%), Anh (1,8%) (năm 2005).
Nhập khẩu chủ yếu từ: Hoa Kỳ (chiếm tỷ lệ 57,5%), Trung Quốc (7,4%), Mexico (3,8%) (năm 2005).
Sản phẩm nhập khẩu chủ yếu:
Máy móc và trang thiết bị công nghiệp bao gồm trang thiết bị viễn thông và điện tử, ôtô và phụ tùng ô tô, nguyên liệu công nghiệp (quặng kim loại, sắt và thép, kim loại quý, hoá chất, chất dẻo(plastic), bông vải, len và các loại sợi vải khác), cùng với các sản phẩm sản xuất công nghiệp và lương thực.
Kim ngạch buôn bán với Việt Nam: 192 triệu USD (năm 2001), 230 triệu USD (năm 2002) và 315 triệu USD (năm 2003).
- Việt Nam xuất sang Canada chủ yếu là hàng dệt may, đồ da, giầy dép, xe đạp, nông-hải sản và thủ công mỹ nghệ.
Cải cách cơ cấu:
Từ đầu thập niên 90 tới nay, Canada đã tiến hành một loạt các cải cách cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực chi tiêu ngân sách, thuế, lao động, phúc lợi xã hội, thương mại, tài chính… nhờ đó đã tạo ra sự tăng trưởng ổn định và bền vững như hiện nay. Một số ví dụ điển hình về cải cách kinh tế như:
Chi tiêu ngân sách: Năm 1994, Chính phủ Liên bang quyết tâm giảm và xóa bỏ dần thâm hụt ngân sách vốn đã tồn tại hơn hai thập niên. Các mục tiêu cắt giảm thâm hụt ngân sách được thiết lập và biện pháp cắt giảm được thực hiện kiên trì để đạt được mục tiêu. Kết quả là sau 4 năm, Chính phủ Liên bang đã giảm được 38,5 tỷ dollar Canada thâm hụt ngân sách và việc giảm thâm hụt đi vào tiến trình ổn định.
Cải cách thuế: Canada tiến hành những cải cách quan trọng về hệ thống thuế trong suốt thập niên 90 tới nay. Ví dụ, năm 1991, thuế dịch vụ và hàng hóa (GST) được áp dụng thay cho thuế doanh thu dành cho nhà sản xuất vốn đã được áp dụng từ năm 1924. Năm 2000, Chính phủ Liên bang thực hiện cắt giảm thuế lớn nhất trong lịch sử. Kế hoạch giảm 100 tỷ dollar Canada trong vòng 5 năm là kế hoạch cải cách thuế quan trọng nhất trong lịch sử.
Tư nhân hóa: Tư nhân