Đề tài Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh

Xác định tội danh (sau đây gọi tắt là định tội) là một vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn cơ bản trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Tất cả những việc làm trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố) suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội được chính xác. Định tội đúng có ý nghĩa quyết định trong vụ án hình sự, bởi vì nó là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, người áp dụng sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai, không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để lọt tội phạm, xử nhẹ hoặc nặng hơn so với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc xử lý hình sự thiếu chính xác như thế sẽ xâm phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế, ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì tầm quan trọng của hoạt động định tội, các chuyên gia Luật hình sự hàng đầu trong nước đã tốn rất nhiều tâm huyết để cho ra đời những tài liệu quý giá giúp cho việc định tội ngày càng chính xác hơn. Trong số đó, có tác giả đi sâu nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm, làm rõ mối quan hệ giữa chúng với cơ sở trách nhiệm hình sự giúp cho người định tội nhận thức sâu sắc về bản chất của tội phạm (xem “Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam”, Tiến sĩ Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2001, tr.3-16). Có tác giả đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống những yêu cầu và từng bước của toàn bộ quá trình định tội (xem “Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật hình sự”, Tập 1, Tiến sĩ Lê Cảm, tr.7-56). Có tác giả đi sâu phân tích những trường hợp đặc biệt trong việc định tội (xem “Thay đổi định tội danh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Toà án nhân dân số 11/2003, tr.6-11, Tạp chí Toà án nhân dân số 12/2003, tr.4-8; “Định tội danh trong những trường hợp đặc biệt” (Luận án cao học Luật) của Tạ Thị Kim Tuyến, do PGS.TS Võ Khánh Vinh hướng dẫn). Cũng có tác giả đi sâu nghiên cứu từng dấu hiệu của tất cả các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự (xem các Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, các bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Thạc sĩ Đinh Văn Quế ). Một số tác giả lại tập trung phân tích những dấu hiệu đặc trưng của một tội hoặc một nhóm tội phạm cụ thể giúp cho người định tội nhận thức được sự khác nhau giữa chúng với các tội phạm khác thuộc cùng một nhóm hoặc thuộc nhóm tội khác trong Bộ luật hình sự (xem “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật hình sự 1999”, TS Trần Văn Độ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6/2000, tr.3-5, 46; “Đặc điểm và các dạng hành vi cơ bản của tội phạm tin học”, Nguyễn Mạnh Toàn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002, tr.29-33); “Về việc xác định tội danh đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực viễn thông”, Mai Thế Bày, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002, tr.21-25; “Những dạng hành vi của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, Trần Đức Thìn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002, tr.46-52; “Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác xâm phạm tính mạng của con người”, Thạc sĩ Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Toà án nhân dân số 2/2003, tr.13-15; “Phân biệt tội kinh doanh trái phép với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác theo Bộ luật hình sự 1999”, Trần Mạnh Đạt, Tạp chí Toà án nhân dân số 9/2002, tr.12-16). Ngoài ra, giới nghiên cứu còn quan tâm tranh luận về việc định tội nào cho phù hợp đối với một số trường hợp phạm tội cụ thể nảy sinh hàng ngày trong hoạt động xét xử (xem các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Người bảo vệ công lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Viện Kiểm sát ) v.v Về mặt lý luận, định tội là một việc làm không phải thật khó. Đó là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Có thể nói, định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể nào đó trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Định tội là một hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thực hiện. Đồng thời, nó cũng là hình thức hoạt động, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm pháp luật (QPPL) hình sự. Để định tội cho một hành vi cụ thể, người áp dụng Luật hình sự phải căn cứ vào cấu thành tội phạm được rút ra từ những quy định của Bộ luật hình sự. Nếu tình tiết của một hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của một CTTP cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự, thì hành vi đó được xác định theo tội danh của CTTP đó.

doc14 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2309 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Xung đột quan điểm trong việc xác định tội danh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XUNG ĐỘT QUAN ĐIỂM TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH TỘI DANH Th.S Phạm Văn Beo Giảng viên Khoa Luật, ĐHCT Xác định tội danh (sau đây gọi tắt là định tội) là một vấn đề hết sức quan trọng, là giai đoạn cơ bản trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Tất cả những việc làm trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố) suy cho cùng là nhằm phục vụ cho việc định tội được chính xác. Định tội đúng có ý nghĩa quyết định trong vụ án hình sự, bởi vì nó là cơ sở cần thiết đầu tiên cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Trên cơ sở xác định người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, người áp dụng sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội được xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong trường hợp định tội không chính xác sẽ dẫn đến kết án sai, không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, xử lý oan người vô tội, để lọt tội phạm, xử nhẹ hoặc nặng hơn so với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc xử lý hình sự thiếu chính xác như thế sẽ xâm phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế, ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì tầm quan trọng của hoạt động định tội, các chuyên gia Luật hình sự hàng đầu trong nước đã tốn rất nhiều tâm huyết để cho ra đời những tài liệu quý giá giúp cho việc định tội ngày càng chính xác hơn. Trong số đó, có tác giả đi sâu nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu đặc trưng cơ bản của tội phạm, làm rõ mối quan hệ giữa chúng với cơ sở trách nhiệm hình sự giúp cho người định tội nhận thức sâu sắc về bản chất của tội phạm (xem “Tìm hiểu khái niệm và những đặc trưng cơ bản của tội phạm theo Luật hình sự Việt Nam”, Tiến sĩ Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2001, tr.3-16). Có tác giả đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống những yêu cầu và từng bước của toàn bộ quá trình định tội (xem “Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật hình sự”, Tập 1, Tiến sĩ Lê Cảm, tr.7-56). Có tác giả đi sâu phân tích những trường hợp đặc biệt trong việc định tội (xem “Thay đổi định tội danh - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Toà án nhân dân số 11/2003, tr.6-11, Tạp chí Toà án nhân dân số 12/2003, tr.4-8; “Định tội danh trong những trường hợp đặc biệt” (Luận án cao học Luật) của Tạ Thị Kim Tuyến, do PGS.TS Võ Khánh Vinh hướng dẫn). Cũng có tác giả đi sâu nghiên cứu từng dấu hiệu của tất cả các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự (xem các Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, các bình luận chuyên sâu Bộ luật hình sự phần các tội phạm của Thạc sĩ Đinh Văn Quế…). Một số tác giả lại tập trung phân tích những dấu hiệu đặc trưng của một tội hoặc một nhóm tội phạm cụ thể giúp cho người định tội nhận thức được sự khác nhau giữa chúng với các tội phạm khác thuộc cùng một nhóm hoặc thuộc nhóm tội khác trong Bộ luật hình sự (xem “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật hình sự 1999”, TS Trần Văn Độ, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6/2000, tr.3-5, 46; “Đặc điểm và các dạng hành vi cơ bản của tội phạm tin học”, Nguyễn Mạnh Toàn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002, tr.29-33); “Về việc xác định tội danh đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực viễn thông”, Mai Thế Bày, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002, tr.21-25; “Những dạng hành vi của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, Trần Đức Thìn, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2002, tr.46-52; “Phân biệt tội giết người với một số tội phạm khác xâm phạm tính mạng của con người”, Thạc sĩ Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Toà án nhân dân số 2/2003, tr.13-15; “Phân biệt tội kinh doanh trái phép với một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế khác theo Bộ luật hình sự 1999”, Trần Mạnh Đạt, Tạp chí Toà án nhân dân số 9/2002, tr.12-16). Ngoài ra, giới nghiên cứu còn quan tâm tranh luận về việc định tội nào cho phù hợp đối với một số trường hợp phạm tội cụ thể nảy sinh hàng ngày trong hoạt động xét xử (xem các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Người bảo vệ công lý, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Viện Kiểm sát…)…v.v… Về mặt lý luận, định tội là một việc làm không phải thật khó. Đó là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Có thể nói, định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một tội phạm cụ thể nào đó trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Định tội là một hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thực hiện. Đồng thời, nó cũng là hình thức hoạt động, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm pháp luật (QPPL) hình sự. Để định tội cho một hành vi cụ thể, người áp dụng Luật hình sự phải căn cứ vào cấu thành tội phạm được rút ra từ những quy định của Bộ luật hình sự. Nếu tình tiết của một hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của một CTTP cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự, thì hành vi đó được xác định theo tội danh của CTTP đó. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, để định tội chính xác là một việc làm không đơn giản chút nào xuất phát từ thực tiễn vô cùng đa dạng của tội phạm. Nghiên cứu số liệu Báo cáo tổng kết công tác xét xử ba năm liền (1999, 2000, 2001) của Toà án nhân dân tối cao cho thấy (tính riêng trong hệ thống Toà án nhân dân): Trung bình mỗi năm Toà án nhân dân cấp tỉnh đã xét xử phúc thẩm khoảng 6482 vụ với khoảng 9249 bị cáo, trong đó khoảng 2,24% số vụ bị cấp Phúc thẩm huỷ án và tuyên không phạm tội khoảng 0,12% số bị cáo so với số bị cáo được xét xử phúc thẩm. Đối với Toà án nhân dân tối cao, mỗi năm xét xử phúc thẩm khoảng 5752 vụ với khoảng 9709 bị cáo, trong đó Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã huỷ xấp xỉ 1,28% án sơ thẩm so với số bị cáo được xét xử phúc thẩm và tuyên không phạm tội đối với khoảng 0,37% số bị cáo so với số bị cáo được xét xử phúc thẩm (xem Báo cáo công tác ngành Toà án các năm 1999, 2000, 2001). Theo nhận xét của Toà án nhân dân tối cao thì con số này là khá cao xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân cơ bản là xét xử đã có sai sót trong định tội. Trong năm 2002 và 2003, các sai sót trong việc áp dụng Bộ luật hình sự và định tội vẫn còn xảy ra trong xét xử. Theo số liệu báo cáo của Toà án nhân dân tối cao, năm 2002 có 12 bị cáo bị Toà xét xử oan sau đó được cấp Phúc thẩm (11 bị cáo) và cấp Giám đốc thẩm (1 bị cáo) tuyên không phạm tội. Cũng trong năm 2002, đã có 489 bản án hình sự có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng nên bị kháng nghị để khắc phục những sai lầm đó (xem Báo cáo công tác ngành Toà án năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2003, tr.6). Năm 2003, tiếp tục có 7 trường hợp bị xử oan (xem Báo cáo công tác ngành Toà án năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2004, tr.3). Toà án nhân dân tối cao, trong Báo cáo tổng kết năm 2003, đã xác định ba khuyết điểm chính trong công tác xét xử hình sự, trong đó khuyết điểm đầu tiên là “việc xác định tội danh không chính xác”. Tuy nhiên, khuyết điểm này không thể đổ lỗi hoàn toàn do một số Thẩm phán, cán bộ chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, chưa tích cực học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà một phần do hoạt động định tội quá phức tạp. Điều này có thể được chứng minh qua thực tế có những trường hợp Toà cấp sơ thẩm xét xử đúng nhưng cấp phúc thẩm huỷ án và xử lại. Tuy nhiên, cấp giám đốc thẩm lại huỷ án phúc thẩm và giữ nguyên án sơ thẩm. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã cho phép đưa các vụ án phức tạp lên mạng để mọi người có thể tự do tranh luận công khai. Đặc biệt ở Mỹ, hầu như Toà án tối cao của bang nào cũng có trang web riêng. Trên trang web có nhiều vấn đề liên quan đến lĩnh vực xét xử, trong đó có nội dung quan trọng là phần tóm tắt nội dung các vụ án đang chờ được xét xử phúc thẩm, tóm tắt quyết định sơ thẩm, kèm theo ý kiến tranh luận công khai về mọi vấn đề xoay quanh các vụ án đó của Toà án, Luật sư, các Luật gia…Bất kỳ ai theo dõi vụ án nếu có quan tâm đều có thể trực tiếp liên hệ với thư ký phụ trách vụ án trong trường hợp muốn biết thêm chi tiết. Những ý kiến tranh luận đó không được xem là chính thức nhưng có giá trị tham khảo, góp phần rất lớn cho sự chính xác của quyết định phúc thẩm. Ở nước ta, ai thường xuyên theo dõi các tạp chí chuyên ngành (như Tạp chí Toà án, Người bảo vệ công lý, Tạp chí Viện Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật…) đều có thể thấy rằng tranh luận quan điểm về định tội trong từng vụ án cụ thể diễn ra thường xuyên và kéo dài cho đến khi ban biên tập tuyên bố “khép lại” việc tranh luận. Do đâu mà phát sinh thực trạng xung đột quan điểm trong việc định tội? Theo chúng tôi, thực trạng xung đột quan điểm trong định tội xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có hai nguyên nhân cơ bản là do người định tội 1) giải quyết không tốt vấn đề cạnh tranh QPPL hình sự; và 2) nhận thức chưa thống nhất về các dấu hiệu định tội vì chúng chưa rõ ràng. Trong nội dung bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích hai nguyên nhân cơ bản này, đồng thời nêu lên một số giải pháp mà lý luận và thực tiễn đã chấp nhận để Quý độc giả tham khảo. Tác giả không có tham vọng nào khác ngoài việc mong được đón nhận nhiều ý kiến quý báu của các bậc tiền bối trong lĩnh vực này để bài viết thêm hoàn thiện, góp phần hạn chế tối đa xung đột quan điểm trong định tội. 1) Vấn đề Cạnh tranh QPPL hình sự trong định tội: Cạnh tranh giữa các QPPL hình sự là trường hợp khi một hành vi phạm tội cùng một lúc bao hàm một số điều luật hoặc một số khoản của điều luật quy định các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự. Không giống trường hợp phạm nhiều tội, trong trường hợp cạnh tranh QPPL hình sự, hành vi phạm tội chỉ được định theo một trong số các QPPL đó. Vì thế, nếu chúng ta giải quyết không tốt sự cạnh tranh này để chọn ra một QPPL phản ánh chính xác nhất, đầy đủ nhất bản chất xã hội và pháp lý của hành vi phạm tội thì việc định tội sẽ thiếu chính xác. Trong giới nghiên cứu Luật hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc phân loại các QPPL hình sự cạnh tranh tuỳ thuộc vào phạm vi nghiên cứu của họ. Trong khuôn khổ của Luật hình sự Việt Nam, chúng tôi xin chấp nhận cách phân chia các QPPL hình sự thành hai loại là 1) cạnh tranh giữa các QPPL chung và QPPL riêng; và 2) cạnh tranh giữa các QPPL riêng với nhau. Lưu ý, khi nói đến QPPL chung hay riêng thì chúng chỉ mang tính tương đối vì chúng ta hiểu nghĩa chung hay riêng ở đây là trong quan hệ với các QPPL khác. Để định tội chính xác trong trường hợp có sự cạnh tranh QPPL hình sự là việc làm không khó. Khoa học Luật hình sự cũng như thực tiễn xét xử ở nước ta đã đúc kết ra được những quy tắc truyền thống nhằm giải quyết vấn đề mà chúng ta có thể cho là hợp lý. Khi định tội danh trong trường hợp có sự cạnh tranh giữa các QPPL chung và riêng thì QPPL riêng được ưu tiên áp dụng để định tội. Chẳng hạn, A vô ý đã làm chết người do bất kỳ nguyên nhân nào đó thì tội danh của A sẽ được định theo QPPL quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, nếu A vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc vi phạm quy tắc hành chính thì hành vi của A sẽ được định theo QPPL quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự. QPPL quy định tại Điều 99 là QPPL riêng trong quan hệ với QPPL chung (Điều 98). Quy tắc này xuất phát từ cơ sở phương pháp luận là cái riêng phải chứa đựng tất cả những dấu hiệu của cái chung, đồng thời cái riêng còn chứa đựng những dấu hiệu đặc thù của mình. Đối với các trường hợp cạnh tranh giữa các QPPL riêng thì hơi phức tạp hơn. Một trong số các dạng cạnh tranh giữa các QPPL riêng thường gặp là cạnh tranh của các QPPL với các tình tiết định khung tăng nặng và các tình tiết định tội. Các QPPL này có thể cùng nằm trong một điều luật quy định về tội phạm. Ví dụ như QPPL quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự. Có thể mô tả bằng trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em có tình tiết định khung tại khoản 3 là “Nhiều người hiếp một người” nhưng người bị hại ở đây lại là “trẻ em chưa đủ 13 tuổi” (tình tiết định tội tại khoản 4). Cũng có thể các QPPL được quy định tại hai điều luật khác nhau. Chẳng hạn, B giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (tội phạm được quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự) nhưng người mà B giết lại là “mẹ” mình và đang là “phụ nữ có thai” (B biết) (các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự). Giải quyết trường hợp cạnh tranh này, lý luận Luật hình sự và thực tiễn thừa nhận quy tắc là áp dụng QPPL có chứa đựng tình tiết định tội để định tội cho hành vi phạm tội. Điều này xuất phát từ thực tế là tình tiết định tội bao giờ cũng có ảnh hưởng lớn hơn tới tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội so với tình tiết định khung, do đó tình tiết định tội có giá trị pháp lý cao hơn tình tiết định khung. Cũng có trường hợp cạnh tranh QPPL xảy ra giữa các QPPL riêng với các tình tiết định khung tăng nặng. Chẳng hạn, C cướp tài sản thuộc trường hợp “có sử dụng hung khí” và “tái phạm nguy hiểm” (các tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự), và tài sản mà C cướp “có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên” (tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 4 Điều 133 Bộ luật hình sự). Trường hợp này, quy tắc để giải quyết cạnh tranh giữa các QPPL là ưu tiên áp dụng QPPL có chứa các tình tiết có giá trị tăng nặng cao nhất. Điều này xuất phát từ cơ sở rằng với việc xây dựng tình tiết có giá trị tăng nặng cao hơn, các nhà làm luật đã bao quát tất cả các trường hợp phạm tội có tình tiết tăng nặng tương tự thấp hơn. Như vậy, với ví dụ trên, chúng ta phải áp dụng khoản 4 Điều 133 mới được xem là chính xác. Cần lưu ý rằng, trong trường hợp này, chúng ta không thể đặt ra vấn đề “tổng hợp hình phạt” của cả hai khoản để áp dụng đối với người phạm tội. Xung đột quan điểm trong định tội thường không diễn ra gay gắt trong trường hợp cạnh tranh QPPL hình sự bởi vì dù sao cũng đã tồn tại các quy tắc truyền thống để giải quyết chúng. Tuy nhiên, trong trường hợp các cơ sở để định tội không rõ ràng thường là nguyên nhân tạo ra bất đồng quan điểm về định tội. Bởi vì, trong trường hợp các cơ sở để định tội không rõ ràng sẽ dẫn đến mỗi người sẽ có sự nhận thức khác nhau về chúng. 2) Cơ sở để định tội không rõ ràng có thể là do QPPL hình sự không rõ ràng (thiếu dấu hiệu pháp lý) hoặc là những tình tiết bên trong của hành vi phạm tội không được bộc lộ rõ: 2.1. Trường hợp QPPL không rõ ràng có thể do QPPL không rõ nghĩa hoặc QPPL có nội dung không đầy đủ. Nếu gặp phải một QPPL không rõ nghĩa trong khi định tội, chúng ta có thể có nhiều cách giải quyết: a) Chúng ta xem lại các công trình chuẩn bị để Bộ luật hình sự được đi vào thực tiễn như: các dự thảo Bộ luật hình sự, tờ trình Quốc hội để thông qua Bộ luật hình sự, Biên bản thảo luận, góp ý kiến thông qua Bộ luật hình sự…, đặc biệt là Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự. Thông qua các công trình đó, chúng ta có thể hiểu thêm ý nghĩa mà nhà làm luật muốn “gán” cho các QPPL mà chúng ta đang áp dụng. Chẳng hạn, vụ án của Nguyễn Văn T(Tạp chí Toà án nhân dân số 10/2003, tr.12): Ngày 12/03/2003, T trộm cắp tài sản trị giá 270.000 đồng. Về nhân thân của T: Tháng 11/1999, T bị Toà án xử phạt 12 tháng tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân” (giá trị tài sản chiếm đoạt là 300.000 đồng) (khoản 1 Điều 257 Bộ luật hình sự 1985), chấp hành xong hình phạt tháng 7/2000; Tháng 12/2001, T bị Toà án xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” (khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999) có kèm áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm”. Có ý kiến tranh luận cho rằng T phạm tội lần này phải áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138 (tái phạm nguy hiểm) vì tháng 12/2001 đã bị áp dụng tình tiết “tái phạm” nay còn phạm tội “do cố ý”. Quan điểm khác cho rằng T chỉ bị áp dụng khoản 1 Điều 138 với lý do tài sản mà T trộm có giá trị dưới 500.000 đồng nên cần có dấu hiệu “đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xoá án tích” thì hành vi mới cấu thành tội phạm, và dấu hiệu này đã được sử dụng để định tội thì không dùng để định khung tăng nặng nữa. Quan điểm thứ ba cũng cho rằng T phạm tội thuộc khoản 1 Điều 138 nhưng với lý do là tháng 12/2001, Toà án áp dụng tình tiết “tái phạm” không đúng nên không làm cơ sở cho việc áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” tại điểm c khoản 2 Điều 138. Trong trường hợp này, nếu chúng ta chỉ phân tích Điều 7 Bộ luật hình sự (hiệu lực về thời gian) để tranh luận thì sẽ gặp lúng túng vì nội dung của nó không rõ ràng. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem điểm c, d mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 1999 thì sự việc trở nên đơn giản. Hành vi phạm tội của T bị xử phạt vào tháng 11/1999 theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự 1985 không là cơ sở để áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” cho lần phạm tội và bị xử phạt vào tháng 12/2001 vì hành vi phạm tội này (theo Bộ luật hình sự 1985) không phải là tội phạm theo Bộ luật hình sự 1999 và do đó lần phạm tội đó đã được đương nhiên xoá án tích. Vì thế, tình tiết “tái phạm” mà Toà án áp dụng vào tháng 12/2001 là trái pháp luật không thể làm cơ sở để áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” và lần này T chỉ bị truy cứu theo khoản 1 Điều 138 là hoàn toàn chính xác. b) Chúng ta có thể dựa theo tiền lệ xét xử để làm cho các cơ sở định tội trở nên rõ ràng. Kết quả của thực tiễn xét xử cũng là một nguồn làm cho những dấu hiệu pháp lý để định tội vốn chưa rõ ràng trong luật sẽ trở nên sáng tỏ, cụ thể. Kết quả của thực tiễn xét xử đề cập ở đây có thể được thể hiện trong các văn bản hướng dẫn áp dụng luật (Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao), Thông tư liên tịch, Thông tư liên ngành, Công văn… (của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an…), trong các Báo cáo tổng kết ngành Tòa án vào cuối năm…v.v… Chẳng hạn như trong các tội xâm phạm sở hữu, luật chỉ quy định các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “hậu quả rất nghiêm trọng”, “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Nếu chúng ta không nghiên cứu mục 3.4 của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP(25/12/2001) thì không thể xác định được trường hợp nào là hậu quả “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” hay “đặc biệt nghiêm trọng” để định tội cho chính xác. Ngoài ra, kết quả của thực tiễn xét xử cũng có thể chưa tồn tại ở dạng văn bản nhưng đã được thừa nhận rộng rãi để định tội. Ví dụ, trong một số tội phạm khác (ngoài các tội xâm phạm sở hữu), luật cũng có quy định tình tiết gây “hậu quả nghiêm trọng”, “hậu quả rất nghiêm trọng”, “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Tuy nhiên, chưa có văn bản hướng dẫn trong các trường hợp này. Thực tiễn vẫn có thể xem xét các trường hợp cụ thể để đánh giá hậu quả, trong đó có tham khảo văn bản hướng dẫn đánh giá hậu quả đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu. Hiện nay, những quy định của Bộ luật hình sự dù đã được sửa đổi và hoàn thiện nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải thích luật, đặc biệt là Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, đã ra nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng luật khi xét xử. Tuy nhiên, nhiều nội dung có liên quan đến định tội vẫn chưa được nhận thức một cách thống nhất, kể cả trong giới nghiên cứu lẫn những người làm công tác thực tiễn. Ví dụ, dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”, “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm”, “người phạm tội là người già”, “lợi ích vật chất khác” trong các tội phạm hối lộ, “tài sản chiếm đoạt” trong tội tham ô tài sản, “hậu quả” trong các tội phạm vi phạm quy định về an toàn giao thông, tội phạm về môi trường, “hàng phạm pháp” hoặc “hành cấm” có số lượng lớn”, “thu lợi bất chính lớn”…v.v…Đó là một số trong số rất nhiều các dấu hiệu mà luật chưa được giải t
Luận văn liên quan