Đất đai đóng vai trò quyết định đối với sự sinh tồn của con người. Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và tham gia vào hầu hết các quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá. Đất đai là môi trường sống của con người và cả sinh vật, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu không thể thiếu của các ngành sản xuất, nhất là ngành sản xuất Nông – Lâm nghiệp. Trong sản xuất Lâm nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, tính chất và độ màu mỡ của đất đóng vai trò quyết định vào quá trình sản xuất và hình thành sản phẩm. Với sản xuất Lâm nghiệp, đất không chỉ là cơ sở không gian, là điều kiện vật chất cần thiết mà còn là yếu tố của sản xuất. Đất vừa là đối tượng vừa là tư liệu của sản xuất Lâm nghiệp. Vì vậy, Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong sản xuất Lâm nghiệp và chỉ có trong sản xuất Lâm nghiệp đất mới có được chức năng này.
Đất đai khác với các tư liệu sản xuất khác ở chổ nếu biết sử dụng thì không bao giờ bị hao mòn mà lại tốt lên. Tuy nhiên, đất là nguồn nguyên liệu có giới hạn về số lượng, cố định trong không gian. Do đó, việc quản lý sử dụng đất đai hợp lý có hiệu quả bền vững đang là vấn đề qua tâm hàng đầu của mỗi địa phương, mọi quốc gia.
Trong những năm gần đây, việc thực hiện QHSDĐ có sự tham gia của người dân bước đầu được áp dụng trên địa bàn Nông thôn miền núi nước ta. Từ đó người dân có thể tự QHSDĐ của mình một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội và môi trường sinh thái.
Tuy nhiên, có thể thấy QHSDĐ cụ thể cho cấp xã hiện nay đang còn nhiều vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu để đi đến hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác này. Bởi vì, việc lập quy hoạch phải được tiến hành từ trên xuống và sau đó bổ sung, hoàn chỉnh từ dưới lên. Đây là quá trình có mối quan hệ ngược, trực tiếp và chặt chẽ giữa tổng thể và cụ thể, giữa vi mô và vĩ mô trong một hệ thống chỉnh thể.
QHSDĐ cấp xã là một yêu cầu rất bức thiết cần được tiến hành định kỳ nhằm phát huy vai trò chỉ đạo của nó đối với sản xuất Lâm nghiệp, làm cơ sở cho công tác giao đất Lâm nghiệp cho các chủ thể quản lý sử dụng. Trong những năm qua, công tác này tuy đã được thực hiện ở hầu hết các địa phương ở nước ta song vẫn còn nhiều tồn tại nhất định. Việc đánh giá hiện trạng chưa thu hút được sự tham gia của người dân và cộng đồng. Mục tiêu và nội dung của phương án quy hoạch thường chưa quan tâm một cách thỏa đáng tới nhu cầu và nguyện vọng của người dân và các cộng đồng nên vai trò chỉ đạo của các phương án quy hoạch còn nhiều hạn chế.
Minh Hóa là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích tự nhiên là 141.006 ha. Trong đó có 131.335,9 ha đất đồi núi (chiếm hơn 93% diện tích toàn huyện). Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn[1].
Xã Minh Hóa là một trong 16 xã, thị trấn của huyện Minh Hóa. Từ năm 2002 việc thông tuyến đường Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho giao thông trở nên tương đối thuận lợi. Đặc biệt, trong năm 2010 trục đường chính vào trung tâm xã, các tuyến đường liên thôn cũng như các tuyến đường ngõ trong thôn đã được bê tông hóa hoàn toàn. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 3.396 ha với 3.476 nhân khẩu trong 773 hộ được phân bố ở 9 thôn[2]. Do việc QHSDĐ chưa được thực hiện cụ thể rõ ràng nên việc phân bổ đất đai cho các ngành, các thành phần quản lý, thực hiện giao đất Lâm nghiệp cho các hộ gia đình, chuyển đổi mục đích sử dụng đất vẫn còn lúng túng. Hệ thống canh tác của người dân còn lạc hậu, kiến thức về việc sử dụng đất đúng mục đích đúng kỹ thuật vẫn còn mờ ảo nên đất dễ bị thoái hóa và xói mòn ngày càng tăng, người dân thiếu vốn sản xuất, khoa học kỹ thuật lạc hậu về mọi mặt, thiếu kiến thức, Hướng giải quyết hiện nay là giúp xã Quy hoạch lại đất đai, lập kế hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, phân tích đề xuất cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, đồng thời đảm bảo chính sách pháp luật mới của Nhà nước về đất đai, đảm bảo QHSDĐ là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ.
Xuất phát từ thực tiễn và nhận thức trên thấy rõ tính cấp thiết của việc QHSDĐ hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của địa phương nên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất cho xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2020”.
54 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2535 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất cho xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai đóng vai trò quyết định đối với sự sinh tồn của con người. Đất đai là điều kiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và tham gia vào hầu hết các quá trình sản xuất vật chất của xã hội. Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá. Đất đai là môi trường sống của con người và cả sinh vật, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng… Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu không thể thiếu của các ngành sản xuất, nhất là ngành sản xuất Nông – Lâm nghiệp. Trong sản xuất Lâm nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, tính chất và độ màu mỡ của đất đóng vai trò quyết định vào quá trình sản xuất và hình thành sản phẩm. Với sản xuất Lâm nghiệp, đất không chỉ là cơ sở không gian, là điều kiện vật chất cần thiết mà còn là yếu tố của sản xuất. Đất vừa là đối tượng vừa là tư liệu của sản xuất Lâm nghiệp. Vì vậy, Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong sản xuất Lâm nghiệp và chỉ có trong sản xuất Lâm nghiệp đất mới có được chức năng này.
Đất đai khác với các tư liệu sản xuất khác ở chổ nếu biết sử dụng thì không bao giờ bị hao mòn mà lại tốt lên. Tuy nhiên, đất là nguồn nguyên liệu có giới hạn về số lượng, cố định trong không gian. Do đó, việc quản lý sử dụng đất đai hợp lý có hiệu quả bền vững đang là vấn đề qua tâm hàng đầu của mỗi địa phương, mọi quốc gia.
Trong những năm gần đây, việc thực hiện QHSDĐ có sự tham gia của người dân bước đầu được áp dụng trên địa bàn Nông thôn miền núi nước ta. Từ đó người dân có thể tự QHSDĐ của mình một cách hợp lý, hiệu quả và bền vững, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích xã hội và môi trường sinh thái.
Tuy nhiên, có thể thấy QHSDĐ cụ thể cho cấp xã hiện nay đang còn nhiều vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu để đi đến hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác này. Bởi vì, việc lập quy hoạch phải được tiến hành từ trên xuống và sau đó bổ sung, hoàn chỉnh từ dưới lên. Đây là quá trình có mối quan hệ ngược, trực tiếp và chặt chẽ giữa tổng thể và cụ thể, giữa vi mô và vĩ mô trong một hệ thống chỉnh thể.
QHSDĐ cấp xã là một yêu cầu rất bức thiết cần được tiến hành định kỳ nhằm phát huy vai trò chỉ đạo của nó đối với sản xuất Lâm nghiệp, làm cơ sở cho công tác giao đất Lâm nghiệp cho các chủ thể quản lý sử dụng. Trong những năm qua, công tác này tuy đã được thực hiện ở hầu hết các địa phương ở nước ta song vẫn còn nhiều tồn tại nhất định. Việc đánh giá hiện trạng chưa thu hút được sự tham gia của người dân và cộng đồng. Mục tiêu và nội dung của phương án quy hoạch thường chưa quan tâm một cách thỏa đáng tới nhu cầu và nguyện vọng của người dân và các cộng đồng nên vai trò chỉ đạo của các phương án quy hoạch còn nhiều hạn chế.
Minh Hóa là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích tự nhiên là 141.006 ha. Trong đó có 131.335,9 ha đất đồi núi (chiếm hơn 93% diện tích toàn huyện). Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn[1].
Xã Minh Hóa là một trong 16 xã, thị trấn của huyện Minh Hóa. Từ năm 2002 việc thông tuyến đường Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho giao thông trở nên tương đối thuận lợi. Đặc biệt, trong năm 2010 trục đường chính vào trung tâm xã, các tuyến đường liên thôn cũng như các tuyến đường ngõ trong thôn đã được bê tông hóa hoàn toàn. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 3.396 ha với 3.476 nhân khẩu trong 773 hộ được phân bố ở 9 thôn[2]. Do việc QHSDĐ chưa được thực hiện cụ thể rõ ràng nên việc phân bổ đất đai cho các ngành, các thành phần quản lý, thực hiện giao đất Lâm nghiệp cho các hộ gia đình, chuyển đổi mục đích sử dụng đất vẫn còn lúng túng. Hệ thống canh tác của người dân còn lạc hậu, kiến thức về việc sử dụng đất đúng mục đích đúng kỹ thuật vẫn còn mờ ảo nên đất dễ bị thoái hóa và xói mòn ngày càng tăng, người dân thiếu vốn sản xuất, khoa học kỹ thuật lạc hậu về mọi mặt, thiếu kiến thức,… Hướng giải quyết hiện nay là giúp xã Quy hoạch lại đất đai, lập kế hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, phân tích đề xuất cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, đồng thời đảm bảo chính sách pháp luật mới của Nhà nước về đất đai, đảm bảo QHSDĐ là hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ.
Xuất phát từ thực tiễn và nhận thức trên thấy rõ tính cấp thiết của việc QHSDĐ hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của địa phương nên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất cho xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2020”.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Từ thế kỷ XIX loài người đã bắt đầu nghiên cứu về đất. Kết quả của những công trình nghiên cứu về phân loại xây dựng bản đồ và quản lý đất đai đã làm cơ sở quan trọng cho việc quản lý và sử dụng đất đai, tăng năng suất trong SXLN
Từ những năm 1967, nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và Quy hoạch sử dụng đất đã được hội đồng nông nghiệp Châu Âu phối hợp với FAO tổ chức. Các hội nghị đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến loại nhỏ,… phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1975, Wink đã phân 6 nhóm chính về dữ liệu của tài nguyên cần thu thập cho Quy hoạch sử dụng đất như: khí hậu, độ dốc, địa mạo, thổ nhưỡng, thủy văn đất, tài nguyên nhân tạo như hệ thống tưới tiêu, thảm thực vật [3].
Năm 1988, Dent và nhiều tác giả khác đã nghiên cứu về quy trình quy hoạch. Ông khái quát QHSDĐ trên 3 cấp và mối quan hệ của các cấp khác nhau: Kế hoạch sử dụng đất cấp Quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện), cấp cộng đồng (xã, thôn)[4]. Ông còn đề xuất trình tự quy hoạch (gồm 4 giai đoạn và 10 bước).
FAO đã đề xuất phương pháp trong nghiên cứu đánh giá đất đai và sử dụng đất trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội và có tính đến hiệu quả của các loại hình sử dụng đất. Quá trình đánh giá đất đai cua FAO cơ bản gồm các bước: Xác định mục tiêu, thu thập số liệu, tài liệu liên quan, xác định loại hình sử dụng đất, xác định và xây dựng bản đồ đất, đánh giá mức độ thích hợp của loài hình sử dụng đất, xem xét tác động môi trường tự nhiên, kinh tế xã hội, xác định loại hình sử dụng đất thích hợp.
Nhìn hướng dẫn trên khá đầy đủ, chặt chẽ, dễ vận dụng và được nhiều quốc gia thử nghiệm và thừa nhận là phương tiện tốt để đánh giá tiềm năng đất đai làm cơ sở cho QHSDĐ các cấp.
Đặc thù của sản xuất lâm nghiệp là trồng trọt và chăn nuôi, vì thế nông lâm nghiệp còn được định nghĩa một cách khác là sinh học áp dụng cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó có trồng trọt với mục tiêu sản xuất sản phẩm từ cây trồng là sản phẩm sơ cấp bao giờ cũng được xếp vị trí đầu tiên.
Theo viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI) hệ thống canh tác là “Một tập hợp các chức năng riêng biệt là: hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và tiếp thị” (1980). Hoặc là “Hình thức tập hợp của một đặc thù các tài nguyên trong nông trại ở một môi trường nhất định, bằng những phương pháp công nghệ sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp” (1989).
Năm 1988, ở Kenya văn phòng môi trường quốc gia hợp tác với đại học Clack thực hiện RRA ở Mbusayi, một cộng đồng ở huyện Machkos. Một kế hoạch quản lý tài nguyên cấp thôn, bản được xây dựng vào tháng 9/1988. Sau đó người ta mô tả RRA này như là một PRA và đưa ra phương pháp trong 2 cuốn sổ tay hướng dẫn. Ở Ấn Độ, chương trình hoạt động phát triển nông thôn Aga Khan bắt đầu sử dụng PRA. Như vậy, PRA được hình thành từ năm 1988 cùng với RRA.
QHSDĐ có sự tham gia của người dân được đừ cập khá đầy đủ và toàn diện trong tài liệu hội thảo VFC – TV Dresden, 1998 của Dr. Habil Holm Uibring Associate selection concerus for Vietnam. Tác giả đã đề cập tới[5]: Quy hoạch rừng những nhận xét về PTNT, QHSDĐ, phân cấp hạng đất, phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ.
Cũng trong chương trình hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998) – Tài liệu hội thảo về QHSDĐ (Land use planing at village level) của FAO đã đề cập một cách chi tiết khái niệm sự tham gia và đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất. Về cơ bản chiến lược nêu lên[6]:
- Sự tham gia của người dân trong những hoạt động thự thi QHSDĐ và giao đất: đào tạo cán bộ, và chuẩn bị, hội nghị làng và chuẩn bị.
- Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng, điều tra rừng và xây dựng bản đồ sử dụng đất.
- Thu thập số liệu và phân tích.
- QHSDĐ và giao đất
- Xác định đất canh tác nông nghiệp.
- Sự tham gia của người dân trong hợp đồng (khế ước) và chuyển đất nông lâm nghiệp.
- Mở rộng quản lý và sử dụng đất.
- Kiểm tra và đánh giá
Những tài liệu hướng dẫn trên là phương tiện tốt để tiến hành QHSDĐ cho cấp xã theo phương pháp cùng tham gia.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Một số chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước liên quan đến QHSDĐ cấp xã.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu rõ “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài” (Điều 18)[7]. Luật đất đai năm 2003 quy định rõ 3 nhóm đất, trong đó nhóm đất nông nghiệp gồm 8 loại đất, nhóm đất phi nông nghiệp gồm 10 loại đất và nhóm đất chưa sử dụng. Luật cũng đã quy định cụ thể các quyền và trách nhiệm của người sử dụng. Tùy theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Theo luật đất đai thì quy hoạch và kế hoạch việc sử dụng đất đai là một trong 8 nội dung quyền của Nhà nước đối với đất đai và quản lý nhà nước về đất đai[8]. Luật đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho QHSDĐ nông lâm nghiệp. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho Quy hoạch Lâm nghiệp.
Tính thống nhất cao giữa 2 luật Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng trong Quy hoạch và giao đất nông lâm nghiệp là xác định rõ vai trò của địa phương, đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và giao đất giao rừng[8],[9]. Trong nghị đinh 64/CP, điều 15 có nêu một số quyền hạn của cấp xã trong sử dụng đất công ích[10]. Trong văn bản quan trọng nhất về giao đất Lâm Nghiệp là nghị định 02/CP của Chính phủ được thay bằng nghị định 163/1999/NĐ - CP ra ngày 01/11/1999 về giao đất, cho thuê đất Lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định và lâu dài vào mục đích Lâm nghiệp có một số điều nói tới nhiệm vụ và quyền hạn cấp xã trong Quy hoạch và giao đất giao rừng[11]. Nghị định 01/CP về giao khoán đất Lâm nghiệp xác định rõ vai trò cấp xã như là cơ quan nhà nước chứng nhận để các hộ nông dân được nhận khoán đất (điều 3, mục 3)[12]. Điều 6 Quyết định số 245/1998/QĐ - TT ngày 21/12/1988 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng và đất LN đã quy định rõ[13] trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp của UBND cấp xã, phường, thị trấn. Mặc dù các văn bản pháp quy chưa quy định rõ quyền hạn đầy đủ của cấp xã trong QHSDĐ nông lâm nghiệp, nhưng cũng đã nêu rõ một số điểm quan trọng trong QHSDĐ cấp xã đó là:
Để tiến hành quy hoạch sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi và đồng cỏ, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống, trên địa bàn xã phải làm rõ các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp như: Về loại đất nông nghiệp phải làm rõ đất trồng cây hằng năm, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp; các loại đất trong nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đât chưa sử dụng. Về loại đất lâm nghiệp phải làm rõ 3 loại đấ rừng: đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng. UBND xã tổ chức QHSDĐ của địa phương, thông qua HĐND và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Trên cơ sở QHSDĐ được phê duyệt UBND xã tổ chức cùng nông dân trong xã tiến hành quy hoạch để lập kế hoạch xây dựng các dự án phát triển của xã theo từng lĩnh vực. Ban Nông lâm – Địa chính của xã có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan để quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất, Quy hoạch và lập kế hoạch xây dựng các dự án phát triển cấp xã.
Có thể nói, các văn bản chính sách của Nhà nước đề cập không nhiều đến QHSDĐ nông lâm nghiệp cấp xã nhưng quan điểm của Đảng và Nhà nước về QHSDĐ nông lâm nghiệp tương đối rõ ràng. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến QHSDĐ nông lâm nghiệp cấp địa phương và coi QHSDĐ là nền tảng cho các quy hoạch khác đồng thời là cơ sở cho giao đất, lập kế hoạch sử dụng đất, xây dựng các dự án phát triển.
1.2.2. Các quan điểm, nghiên cứu và thử nghiệm liên quan tới QHSDĐ cấp xã.
Reichnberg (1992)[14] và các nhà nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có QHSDĐ. Quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp cấp vĩ mô được xây dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai. Vì vậy, việc tiến hành quy hoạch nông lâm nghiệp còn thiếu cơ sở thực hiện.
Reichnberg năm 1992, sau khi khảo sát 5 tỉnh trung tâm miền núi phía Bắc cho rằng Quy hoạch vi mô ở Việt Nam nên được nghiên cứu để phát triển khái niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh[14] bao gồm: phủ toàn bộ đất đai cấp xã, nghĩa là Quy hoạch nông lâm nghiệp dựa trên QHSDĐ trên toàn bộ diện tích hành chính trong xã, phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan quản lý Nhà nước quản lý, QHSDĐ phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để sử dụng đất tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng; chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định.
Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp cấp xã được thực hiện tại xã Tử Nê huyên Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu tỉnh Hòa Bình do dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp được thực hiện từ năm 1993. Theo ông Nguyễn Văn Tuấn và Vũ Văn Mễ (1996), QHSDĐ được coi là một nội dung chính và được thực hiện khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản, chính quyền xã[15]… Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy càn có một kế hoạch sử dụng đất chi tiết hơn thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch, cần có sự điều chỉnh và thời sự hóa kế hoạch.
Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996 – 2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái và Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Hải Nam năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành QHSDĐ, tỉnh Hà Giang đã xây dựng và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp: xã, thôn và HGĐ. Đến năm 1998, trên toàn vùng dự án có 76 thôn bản được QHSDĐ theo phương pháp cùng tham gia. Phương pháp QHSDĐ dựa trên công cụ PRA, căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất, với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn[16]. Tuy nhiên một số mâu thuẫn giữa nhu cầu của cộng đồng và định hướng của Nhà nước và kế hoạch của tỉnh, huyện cũng đã bộc lộ. Vấn đề này cũng được xuất hiện ở Yên Châu tỉnh Sơn La. Vấn đề nghiên cứu ở đây là phương pháp QHSDĐ địa phương sao cho phù hợp với chính sách về đất đai của Chính phủ và kết hợp hài hòa với nhu cầu của cộng đồng.
Từ kết quả thử nghiệm ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sông Bé , Vũ Văn Mễ cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nguyện vọng của người dân,… xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên[15]. Cách tiếp cận này phù hợp với xu thế chung hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp.
Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm, năm 1996 cục kiểm lâm cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã”[17]. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Bản hướng dẫn này nên hoàn thiện ở những nguyên tắc và các phương pháp cơ bản. Không nên hướng dẫn chi tiết dẫn đến ngộ sự nhận rằng việc QHSDĐ nông lâm nghiêp cấp địa phương theo một chu trình cứng.
Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác kỹ thuật Việt – Đức, dự án phát triển Lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp QHSDĐ và Giao đất lâm nghiệp tại hai xã của hai huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai Châu) trên cơ sở hướng dẫn của cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy hoạch. Giao đất Lâm nghiêp và áp dụng cách tiếp cận LNXH đối với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt. Sự khác biệt ở đây là lấy cấp thôn bản làm đảm bảo quy hoạch phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan và nhiều người khác năm 1997[18] ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Qua tổng kết và phân tích các nghiên cứu thử nghiệm có liên quan đến QHSDĐ nông lâm nghiệp ở Việt Nam có thể rút ra một số kết luận cho nghiên cứu như sau:
- Hiện tại Việt Nam chưa có nghiên cứu đầy đủ về QHSDĐ nông lâm nghiệp cấp xã. Những thử nghiệm về QHSDĐ nông lâm nghiêp cấp địa phương chưa được tổng kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận.
- Phương pháp QHSDĐ cấp xã đang còn lúng túng, nhiều điểm chưa rõ và được vận dụng một cách khác nhau ở các chương trình, dự án và các địa phương. Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân trong QHSDĐ cấp vi mô đang được vận dụng và đạt được một số thành công nhưng hiệu quả quy hoạch chưa được khẳng định.
- Cơ sở khoa học cho QHSDĐ cấp xã chưa rõ ràng. Mặt khác, thực tiễn về quy hoạch này chưa có tổng kết và đánh giá. Vì vậy, nhiều vấn đề đang đặt ra là cần tiếp tục nghiên cứu đặc biệt là mối quan hệ giữa tổng thể và cụ thể, giữa vĩ mô và vi mô trong QHSDĐ cấp xã.
Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Về lý luận
Góp phần xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp bền vững.
2.1.2. Về thực tiễn
Đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp theo hướng bền vững tại Xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa, Tỉnh Quảng Bình.
2.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các văn bản pháp quy của nhà nước về đất đai, chính sách bảo vệ và phát triển rừng; điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế xã hội và nhân văn của xã; các cơ chế chính sách đã và đang áp dụng ảnh hưởng đến quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp; một số mô hình sử dụng đất tại Xã Minh Hóa, huyện Minh Hóa, Tỉnh Quảng Bình. Trong đó tập trung nghiên cứu sâu về đất nông lâm nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Xã Minh Hóa, huyện minh Hóa, Tỉnh Quảng Bình.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu đề ra, đề tài cần tiến hành nghiên cứu những nội dung chính sau:
2.3.1. Phân tích điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội.
- Phân tích điều kiện tự nhiên, tài nguyên môi trường như: vị trí địa lý, địa hình địa mạo, khí hậu thủy văn, các nguồn tài nguyên, cảnh quan môi trường.
- Thực trạng phát triển kinh tế xã hội: Thực trạng phát triển kinh tế xã hội các ngành, dân số lao động, việc làm, thực trạng phát triển các khu dân cư, thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng.
2.3.2. Đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất đai và tiềm năng đất đai của xã.
- Tình hình đất đai: Đánh giá công tác quản lý nhà nước đất đai sau khi ban hành luật đất đai đến nay, những mặt làm được và những mặt chưa làm được
- Hiện trạng sử dụng đất: Hiện trạng sử dụng các loại đất (nông nghiệp, lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất chuyên dùng đất chưa sử dụng), từ đó rút ra những luận định, kết luận về tính hợp lý, chưa hợp lý trong sử dụng đất.
- Biến động và tiềm năng đất đai: Căn cứ vào tình hình biến động quỹ đất qua các năm 2005 – 2010, nhận xét sự biến động, từ đó đưa ra đánh giá nhu cầu sử dụng đất và đánh giá tiềm năng các loại đất làm cơ sở cho việc đưa ra phương án QHSDĐ.
2.3.3. Đề xuất phương án QHSDĐ và lập kế hoạch sử dụng đất của xã.
- Xây dựng phương án QHSDĐ
+ Căn cứ pháp lý để xây dựng phương án QHSDĐ
+ Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020
+ Mục tiêu phát triển kinh