Địa vị pháp lí của người bào chữa

Địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật qui định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. * Người bào chữa: Theo từ điển giải thích luật học thì: Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một nghĩa rộng hơn thì Người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự, hoặc cho việc bào chữa cho đương sự đó đang bị lên án. Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng

doc17 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3597 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Địa vị pháp lí của người bào chữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ BÀI ...…………………………………………………………………………..…2 NỘI DUN ..……………………………………………………………………………2 I. Lý luận chung về người bào chữa…………………………………………………...2 1. Một số khái niệm ...…………………………………………………………………2 2. Phân loại người bào chữa…………………………………………………………...3 II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành…………………..…..4 1. Quyền của người bào chữa………………………………………………………….4 2. Nghĩa vụ của người bào chữa……………………………………………………....7 3. Những điểm mới về địa vị pháp lí của người bào chữa theo BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988………………………………………………………………………...8 4. Ý nghĩa chế định địa vị pháp lí của người bào chữa trong pháp luật hiện hành..…11 III. Thực trạng về địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay……...12 IV. Một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay……………………………………………………………………………...15 KẾT LUẬN………………………………………………………………………….16 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………....17 A. MỞ BÀI Trong những người tham gia tố tụng hình sự thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và thống nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Tìm hiểu khía cạnh của vấn đề “ Địa vị pháp lí của người bào chữa” từ lí luận, quy định của pháp luật đến thực tiễn thực hiện chế định về người bào chữa hiện nay nhằm hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong giai đoạn hiện nay. B. NỘI DUNG I. Lý luận chung về người bào chữa 1. Một số khái niệm * Địa vị pháp lí: Địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật qui định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. * Người bào chữa: Theo từ điển giải thích luật học thì: Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một nghĩa rộng hơn thì Người bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án hình sự hay dân sự, hoặc cho việc bào chữa cho đương sự đó đang bị lên án. Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng Hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về người bào chữa. Dựa trên các quy định của pháp luật ta có thể hiểu người bào chữa như sau: “Người bào chữa là người được cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. * Địa vị pháp lý của người bào chữa: Dựa theo khái niệm về địa vị pháp lí và người bào chữa, ta có thể hiểu địa vị pháp lí của người bào chữa như sau: “Địa vị pháp lí của người bào chữa là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho người bào chữa, tạo cho người bào chữa có khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ pháp luật”. Như vậy, trong tố tụng hình sự người bào chữa là người tham gia tố tụng, thực hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để đảm bảo cho người bào chữa thực hiện chức năng của mình BLTTHS quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự. 2. Phân loại người bào chữa Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. - Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của Luật sư là hoạt động có tính chất chuyên nghiệp (1), đây là đội ngũ chính tham gia bào chữa trong TTHS. Hiện nay, Luật luật sư đang điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể về luật sư, theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 thì luật sư phải đáp ứng được các yêu cầu: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm”, Khi muốn hành nghề luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”. - Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Ngoài ra theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có các chủ thể khác là đại diện hợp pháp như: bố nuôi, mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người khác theo quy định của pháp luật đối với những trường hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người địa diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. - Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là người được Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của tổ chức mình. Về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Nhưng trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. II. Địa vị pháp lí của người bào chữa theo pháp luật hiện hành. 1. Quyền của người bào chữa Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đã quy định quyền của người bảo chữa một cách khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này đã khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn trong quá trình tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003 đã quy định một cách khá chi tiết các quyền mà người bào chữa khi tham gia tố tụng có được: - Thứ nhất, Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lấy khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác và có quyền xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện đúng chức năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. - Thứ hai, Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Cũng như quy định ở trên quy định quyền này của người bào chữa nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa có thể chủ động hơn trong việc có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can... - Thứ ba, Theo điều 43 và điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo Điều 42 BLTTHS về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, và nếu xét thấy việc những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa. - Thứ tư, Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào chữa không chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được, làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều tra mà cơ quan điều tra đã đưa ra hoặc kết luận. Vì vậy, người bào chữa phải có quyền tự mình đi thu thập tài liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các quyền khác của người bào chữa, ví dụ như quyền gặp bị can bị cáo, sau khi gặp và có mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm được những tình tiết mới hoặc bị can, bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm giúp những nhân chứng, vật chứng (tài liệu, đồ vật) mà có thể cung cấp những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo. - Thứ 5, Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm nguời làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa. - Thứ sáu, Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lí, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. - Thứ bảy, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến người bào chữa. Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. - Thứ tám, Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử vai trò của người được bào chữa thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền tranh luận dân chủ trước tòa án ( Điều 19 BLTTHS 2003). Như vậy, quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa được BLTTHS năm 2003 quy định rất chi tiết và rõ ràng. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được có những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận người bào chữa phải phần tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa, người bào chữa còn có quyền xem xét vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án (Khoản 4 Điều 209 BLTTHS năm 2003). - Thứ chín, Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền này đảm bảo cho các hoạt động tố tụng được khách quan và toàn diện. Về thời hạn cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết các khiếu nại tại các điều 329, 330, 331, 332 của BLTTHS năm 2003, theo đó thì: Thời hạn giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền cùng cấp là không quá 7 ngày, cơ quan có thẩm quyền cấp trên trực tiếp là không quá 15 ngày. Đối với khiếu nại kiểu này thì về nguyên tắc phải xem xét giải quyết ngay. Trong trường hợp phải có thời gian để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá 3 ngày. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết và tiếp tục khiếu nại thì thời hạn giải quyết lần cuối cùng là không quá 7 ngày. - Thứ mười, Người bào chữa còn có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo. 2. Nghĩa vụ của người bào chữa Tương ứng với những quyền mà người bào chữa có được theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì theo khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa có những nghĩa vụ sau: - Một là, Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này. - Hai là, Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. - Ba là, Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đăm nhận bào chữa, nếu không có lí do chính đáng. - Bốn là, Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. - Năm là, Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. - Sáu là, Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức và cá nhân. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật 3. Những điểm mới về địa vị pháp lí của người bào chữa theo BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 BLTTHS năm 1988 đã quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa tại Điều 36 BLTTHS năm 1988. Nhưng khi bộ luật TTHS năm 2003 ra đời thì địa vị pháp lý của người bào chữa đã được ghi nhận một cách đầy đủ và toàn diện nhất cũng như có các cơ chế đảm bảo cho quyền đó được thực hiện trong thực tế, nó là cơ sở pháp lí chắc chắn nhất về quyền và nghiã vụ của người bào chữa có thể thực hiện việc bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo một cách hiệu quả. BLTTHS năm 2003 quy định một cách chi tiết hơn quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS năm 1988. Sau đây là những quy định mới về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988: - Thứ nhất, về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa BLTTHS năm 2003 đã quy định thêm thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giữ: “ Trong trường hợp bắt người khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.” Đây là một bước phát triển mới trong luật TTHS. Để đồng bộ với quy định về thời điểm tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2003 cũng ghi nhận thêm tại khoản 2, điểm a, Điều 58: “ Người bào chữa được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa” việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án, biết được và thu thập được những chứng cứ, lí luận chứng minh cho sự vô tội hoặc giảm nhẹ tội của thân chủ, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong biên bản lời khai có chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hoặc bất lợi cho bị can mà sau này cơ quan điều tra có thể sử dụng để buộc tội...để yêu cầu thân chủ khai lại, giải thích lại hoặc đính chính lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình trạng sau này khi đã có chữ kí xác nhận rồi thì đó đã được coi là chứng cứ. - Thứ hai, BLTTHS năm 2003 đã thể hiện sự tiến bộ so với BLTTHS năm 1988 khi quy định người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can ( khoản 2, điểm b, Điều 58). Tiếp đó là những quy định mới về quyền thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giam, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, các nhân theo yêu cầu của người bị tạm giam, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. BLTTHS năm 2003 đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp và có quy định hoàn toàn mới so với BLTTHS năm 1988 về quyền của người bào chữa ở điểm d, đ khoản 2 Điều 58 như trên, đã quy định về phạm vi, cách thức thu thập tài liệu, đồ vật và tình tiết liên quan đến việc bào chữa của người bào chữa. - Thứ ba, Trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo, khi thấy cần thiết người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Mặc dù nội dung quyền này không thay đổi nhiều so với BLTTHS năm 1988, nhưng BLTTHS năm 2003 tiến bộ hơn BLTTHS năm 1988 khi quy định những đảm bảo cho quyền này của người bào chữa được thực hiện, đó là quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải trả lời cho người bào chữa biết về việc giải quyết những yêu cầu của người bào chữa: “ Cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của người bào chữa báo cho họ biết kết quả. Trong trường hợp không chấp nhận yêu cầu của cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lí do.Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan điều tra hoặc viện kiếm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại...” (BLTTHS năm 2003, Điều 122) - Thứ tư, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa. Quy định này đã loại bỏ được quy định chỉ mang tính hình thức, có thể hiểu theo hai nghĩa trước đây của BLTTHS năm 1988 “ có quyền đọc hồ sơ và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra” . Việc quy định thêm quyền sao chụp những tài liệu hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra, làm cho quyền nghiên cứu hồ sơ của người bào chữa được thực tế hơn, phù hợp với thông lệ của pháp luật các nước trên thế giới. - Thứ năm, Quyền tham hỏi và tranh luận tại phiên tòa của người bào chữa được BLTTHS năm 2003 ké thừa và phát triển hơn BLTTHS năm 1988 nhờ các thay đổi trong các điều luật quy định về tranh luận, xét hỏi, đối đáp tại phiên tòa ( Điều 209, 217, 218, 222 BLTTHS năm 2003). Đồng thời khi tham gia phiên tòa BLTTHS đã quy định người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ở đây, BLTTHS năm 2003 đã quy định thêm việc khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc quy định này đã làm cho quyền của người bào chữa được nâng cao và nâng cao tính khách quan trong việc tiến hành tố tụng so với BLTTHS năm 1988. Cùng với việc sửa đổi bổ sung về quyền của người bào chữa, nghĩa vụ của người bào chữa cũng có một số điểm mới được quy định tại khoản 3 và 4 Điều 58 BLTTHS năm 2003 so với những quy định tại khoản 3 Điều 36 của BLTTHS năm 1988. Tùy theo mỗi gia đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, Ngư
Luận văn liên quan