Điều hành chính sách tiền tệ bằng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay

Nghiệp vụ thị trường mở được phát hiện và sử dụng trong điều hành CSTT của NHTW các nước từ những thập niên 20 của thế kỷ XX. Công cụ CSTT này được xem là công cụ có nhiều ưu điểm nhất so với các công cụ khác của CSTT nhưng chỉ mới được áp dụng chưa đầy 10 năm qua ở Việt Nam. Mặc dù thời gian ngắn như vậy, nhưng công cụ này đã phát huy được hiệu quả trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam đặc biệt trong năm 2007 - 2008, góp phần kiềm chế lạm phát tăng cao trong năm 2007, ổn định kinh tế vĩ mô trong khủng hoảng tài chính năm 2008, đảm bảo tính thanh khoản, giữ vững ổn định hệ thống ngân hàng. Bài học trong điều hành CSTT thông qua công cụ NVTTM những năm qua đã cho thấy hiệu quả rất cao của công cụ cần được phát huy trong những năm tới. Trong quá trình tìm hiểu về điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN, em nhận thấy công cụ Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ CSTT có nhiều ưu điểm nổi bật, tính hiệu quả cao nhưng chỉ mới được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian ngắn. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận cũng như thực trạng áp dụng ở Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết để phát huy hiệu quả tốt nhất công cụ này trong tương lai khi nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Đây là một vấn đề em rất tâm đắc trong quá trình học tập. Do đó, em đã chọn đề tài: "Điều hành chính sách tiền tệ bằng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong Đề án môn học Lý thuyết Tài chính tiền tệ. Kết cấu của đề án gồm 2 phần: Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ thị trưởng mở của Ngân hàng trung ương Chương II: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4514 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều hành chính sách tiền tệ bằng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Nghiệp vụ thị trường mở được phát hiện và sử dụng trong điều hành CSTT của NHTW các nước từ những thập niên 20 của thế kỷ XX. Công cụ CSTT này được xem là công cụ có nhiều ưu điểm nhất so với các công cụ khác của CSTT nhưng chỉ mới được áp dụng chưa đầy 10 năm qua ở Việt Nam. Mặc dù thời gian ngắn như vậy, nhưng công cụ này đã phát huy được hiệu quả trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam đặc biệt trong năm 2007 - 2008, góp phần kiềm chế lạm phát tăng cao trong năm 2007, ổn định kinh tế vĩ mô trong khủng hoảng tài chính năm 2008, đảm bảo tính thanh khoản, giữ vững ổn định hệ thống ngân hàng. Bài học trong điều hành CSTT thông qua công cụ NVTTM những năm qua đã cho thấy hiệu quả rất cao của công cụ cần được phát huy trong những năm tới. Trong quá trình tìm hiểu về điều hành các chính sách vĩ mô của NHNN, em nhận thấy công cụ Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ CSTT có nhiều ưu điểm nổi bật, tính hiệu quả cao nhưng chỉ mới được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian ngắn. Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận cũng như thực trạng áp dụng ở Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết để phát huy hiệu quả tốt nhất công cụ này trong tương lai khi nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Đây là một vấn đề em rất tâm đắc trong quá trình học tập. Do đó, em đã chọn đề tài: "Điều hành chính sách tiền tệ bằng nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu trong Đề án môn học Lý thuyết Tài chính tiền tệ. Kết cấu của đề án gồm 2 phần: Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ thị trưởng mở của Ngân hàng trung ương Chương II: Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHNN Việt Nam Chương I: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Đối với bất kỳ quốc gia nào có nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ (CSTT) bao giờ cũng là một công cụ quản lý vĩ mô quan trọng bậc nhất của nhà nước bên cạnh các chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập, chính sách đối ngoại,.... Để thực hiện các mục tiêu CSTT đề ra, NHTW sử dụng các công cụ CSTT cụ thể để tác động trực tiếp tới cung tiền tệ và lãi suất nhằm điều hành CSTT thắt chặt hay mở rộng. Các công cụ của CSTT bao gồm: Nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ CSTT quan trọng bậc nhất của NHTW bởi nhiều ưu điểm vốn có so với các công cụ khác. 1.1. Lịch sử hình thành nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operation) được Ngân hàng Anh là ngân hàng áp dụng đầu tiên từ năm 1914 trong quá trình tìm kiếm công cụ hiệu quả trong điều hành lãi suất thị trường. Tuy nhiên, ở Anh, NVTTM thực sự chỉ đóng vai trò quan trọng từ những năm 1930. Vậy thì NVTTM chính thức được quốc gia nào sử dụng khi nào? NVTTM được Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) phát hiện và bắt đầu sử dụng như một công cụ của CSTT từ những năm sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1920 - 1921. Nguồn thu nhập chủ yếu của FED trước cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1920 là nguồn thu từ nghiệp vụ chiết khấu. Sau cuộc suy thoái kinh tế năm 1920 - 1921, FED thiếu vốn nghiêm trọng do phải rót vốn để cứu nền kinh tế và vốn từ lượng tiền chiết khấu giảm sút mạnh mẽ. Trong tình thế cấp bách đó, FED đã buôn bán chứng khoán để kiếm thêm nguồn thu nhằm duy trì hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua bán chứng khoán kiếm lãi để cải thiện nguồn thu, các nhà điều hành của FED đã phát hiện ra rằng dự trữ của các ngân hàng tăng lên còn các khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. FED đã rút ra được một bài học rất đắt giá từ việc mua bán chứng khoán có tính thanh khoản cao khiến cho cơ số tiền tệ thay đổi mạnh mẽ. Thuật ngữ “thị trường mở” đã xuất hiện lần đầu ở Mỹ trong những năm đầu thập niên 20 thế kỉ 19. NVTTM ngày càng là một công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của Mỹ. Là nền kinh tế lớn nhất của thế giới, từ bài học điều hành CSTT của Mỹ, NVTTM lần lượt đã được các NHTW của Anh áp dụng từ những năm 1930, ngân hàng Raykh của Đức bắt đầu thực hiện trong điều hành CSTT từ năm 1933. Tháng 7 năm 2000, NHNN Việt Nam chính thức thực hiện NVTTM với tư cách là một công cụ của CSTT. 1.2. Khái niệm Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ CSTT có hiệu quả cao, đã và đang được các nước trên thế giới sử dụng nhiều trong điều hành CSTT quốc gia. Mặc dù vậy, khái niệm chung về NVTTM vẫn chưa được thống nhất giữa các nước trên thế giới. Ở nước Anh, quan điểm về NVTTM: “NVTTM là việc NHTW mua bán trái phiếu dài hạn của Chính phủ trên thị trường  trái phiếu có bảo đảm để làm tăng hoặc giảm mức cho vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường  mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân và tổ chức đã bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện trên thị trường  tín phiếu. Nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu thương mại để tác động đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”. Quan điểm của NHTW Đức tương đồng với quan điểm của NHTW Anh. Quan điểm này cho rằng GTCG dài hạn có thể giao dịch, khi đó thị trường mở bao gồm cả thị trường chứng khoán trong đó. Quan điểm của FED, Mỹ, “NVTTM là việc mua bán các loại chứng khoán trên thị trường tài chính được thực hiện bởi FED”. Tuy nhiên, một số nước khác lại cho rằng thị trường mở chỉ gồm các GTCG ngắn hạn có tính thanh khoản cao. Ở Việt Nam, theo Luật số 10/2003/QH sửa đổi Luật Ngân hàng năm 1997 và QĐ số 01/2007/QĐ – NHNN về Ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở, “NVTTM là nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các GTCG do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”. NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán ngắn hạn tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại GTCG khác trên thị trường tiền tệ do Thống đốc NHNN quy định tùy vào từng thời kỳ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Điều này có nghĩa ở Việt Nam, GTCG chủ yếu được giao dịch là GTCG ngắn hạn. Sự không thống nhất về khái niệm này thể hiện sự khác nhau về trình độ phát triển của thị trường tài chính, quy định về hàng hóa giao dịch, các đối tác tham gia thị trường và các loại giao dịch trên thị trường mở của mỗi quốc gia. Có thể hiểu khái quát nhất, “Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các chủ thể là các tổ chức tín dụng và phi tín dụng trên thị trường tài chính nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, thông qua đó tác động tới lãi suất và dự trữ bắt buộc của các chủ thể này để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế" Như vậy, trong khái niệm này không phân biệt đối tượng của NVTTM là TCTD hay phi tín dụng, cá nhân hay tổ chức. Bởi vì NHTW vẫn phải thực hiện CSTT nhằm tăng giảm lượng tiền cung ứng. Đồng thời, việc mua bán chứng khoán không chỉ được thực hiện ở thị trường tiền tệ (thị trường tài chính ngắn hạn) mà còn được thực hiện ở thị trường vốn (thị trường tài chính dài hạn) tức là mua bán trên thị trường tài chính. 1.3. Nội dung hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở 1.3.1. Hàng hóa giao dịch trên NVTTM Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể mua bán trên NVTTM vì chúng đều là tài sản thế chấp. Nhưng khác với công cụ tái cấp vốn (cho vay có đảm bảo ở tài sản thế chấp), tài sản giao dịch trong NVTTM phải có khả năng thanh khoản cao, đảm bảo quản lý dễ dàng. Đồng thời phải đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được mục tiêu đề ra. Tài sản đảm bảo được các điều kiện này chỉ có thể là các loại GTCG. Một số nước như Nhật Bản, Úc, Pháp chỉ cho phép giao dịch GTCG ngắn hạn nhưng một số nước như Mỹ, Anh cho phép GTCG dài hạn cũng được làm hàng hóa của NVTTM. Như vậy, các loại GTCG được sử dụng ở các quốc gia là khác nhau. Tuy nhiên, NVTTM không giới hạn cụ thể về chủng loại cũng như thời hạn của GTCG, bao gồm những loại chủ yếu sau: Tín phiếu Kho bạc Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán Chính phủ được phát hành nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường dưới 12 tháng. Đây là loại hàng hoá chủ yếu của NVTTM ở hầu hết thị trường mở các nước bởi vì: (i) Có tính thanh khoản cao, (ii) Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và đáp ứng nhu cầu can thiệp của NHTW với mức độ và quy mô khác nhau. Ưu điểm của tín phiếu kho bạc: khi NHTW bán tín phiếu kho bạc thay cho việc phát hành tín phiếu NHTW để thực hiện CSTT thắt chặt thì gánh nặng về thực hiện CSTT sẽ chuyển sang ngân sách và điều đó được thể hiện rõ ràng trên số liệu ngân sách. Mặt khác khi thị trường tiền tệ chưa phát triển, số dư tín phiếu kho bạc lại khá lớn thì việc sử dụng tín phiếu kho bạc để thực hiện CSTT sẽ giảm rủi ro của việc phân tách thị trường. Tín phiếu NHTW Tín phiếu NHTW là loại GTCG ngắn hạn do NHTW phát hành để làm công cụ cho NVTTM. Việc sử dụng tín phiếu NHTW sẽ tăng cường tính độc lập của NHTW trong việc thực thi CSTT và là công cụ linh hoạt cho việc điều tiết vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu NHTW để thực thi CSTT sẽ làm cho chi phí hoạt động của NHTW tăng lên, mặc dù NHTW hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, cần phối hợp trong việc phát hành tín phiếu NHTW và tín phiếu kho bạc để tránh việc tập trung mua tín phiếu có lãi suất cao hơn. Trái phiếu Chính phủ Trái phiếu chính phủ là giấy nhận nợ dài hạn do Chính phủ phát hành nhằm mục đích huy động vốn cho ngân sách. Mặc dù là GTCG dài hạn có thời hạn lên đến 10-30 năm nhưng trái phiếu Chính phủ được sử dụng khá rộng rãi trong các giao dịch NVTTM ở một số nước bởi tính an toàn, ổn định trong phát hành và khối lượng phát hành thường lớn, có khả năng tác động trực tiếp giá cả trên thị trường tài chính phát triển. Trái phiếu Chính quyền địa phương Trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu và thường do các chính quyền địa phương lớn phát hành. Sự can thiệp của NHTW thông qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu Chính phủ. Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi (CD) là giấy nhận nợ của ngân hàng hay tổ chức tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền đã được gửi vào ngân hàng với một kỳ hạn và lãi suất nhất định. Thời hạn của CD có thể từ 7 ngày đến 7 năm nhưng chủ yếu là ngắn hạn. CD được sử dụng khá phổ biến trên thị trường tiền tệ do các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền khi cần thiết mà không phải rút tiền gửi trước hạn. Một nền kinh tế có thị trường tài chính phát triển, thì tính chất dài hạn của nguồn vốn chỉ là mang tính chất của người phát hành. Bản chất nguồn vốn dài hạn chỉ là một chuỗi các nguồn vốn ngắn hạn tạo thành. Đối với NVTTM, thời hạn của GTCG sẽ không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của CSTT vì phương thức giao dịch theo hợp đồng mua lại trên NVTTM được xử lý một cách hợp lý. Tóm lại, phạm vi hàng hóa trên NVTTM là không bị giới hạn. Khi thị trường tài chính phát triển ở các quốc gia, thì GTCG trung và dài hạn sẽ được sử dụng là hàng hóa chính thức của NVTTM. 1.3.2. Thành viên tham gia NVTTM Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường rất đa dạng với các mục đích khác nhau. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tùy vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, có những quy định riêng về thành viên tham gia NVTTM. Thông thường thành viên tham gia bao gồm: NHTW, các TCTD, các tổ chức phi tín dung, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân… nhưng không phải tất cả các chủ thể đều có thể tham gia mà phải có những điều kiện cần thiết. Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi thành viên tham gia NVTTM, đó là: Thứ nhất, NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi. Về mặt lý thuyết thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các TCTD mà còn cả các tổ chức khác, thậm chí có thể bao gồm các cá nhân có tiền mặt và tiền gửi. Thứ hai, nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng đa năng thì phạm vi thành viên tham gia chỉ mở rộng đến TCTD. Thứ ba, khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán. Nếu cá nhân không có séc hoặc tiền trên tài khoản gửi tại NHTW thì không thể tham gia mua bán được trên thị trường mở. Nói chung, hiện nay quy định về thành viên của NVTTM ở các quốc gia chủ yếu bao gồm: Ngân hàng trung ương: NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các mục tiêu đã xác định. NHTW giữ vai trò là người tổ chức, xây dựng và điều hành hoạt động NVTTM theo mục tiêu của CSTT. Thông qua việc chủ động mua bán các loại chứng khoán trên thị trường tài chính, NHTW đã chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế và gián tiếp tác động tới lãi suất trên thị trường. Ngân hàng thương mại Các NHTM là thành viên chủ yếu tham gia NVTTM của NHTW và là đối tác quan trọng của NHTW xét trên phương diện tin cậy và hiệu quả. Hầu hết các NHTM tham gia NVTTM nhằm điều hoà vốn khả dụng để đảm bảo tính thanh khoản và đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để hưởng lãi. Sự tham gia của các NHTM trong các giao dịch NVTTM có ý nghĩa quan trọng xét trên góc độ hiệu quả CSTT do: (i) NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, có mạng lưới hoạt động rộng, đóng vai trò quan trọng trong cung ứng vốn cho nền kinh tế; (ii) Bên cạnh đó, NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay trên thị trường tiền tệ. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng Ở những quốc gia có thị trường tài chính phát triển, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được cho phép tham gia NVTTM như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, hội tiết kiệm.... Các công ty này thường sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán GTCG để kiếm lãi. Các nhà giao dịch sơ cấp Các nhà giao dịch sơ cấp tham gia vào NVTTM với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các GTCG giữa NHTW và các đối tác khác. Các nhà giao dịch sơ cấp thông thường có nguồn vốn đủ lớn đáp ứng yêu cầu của NHTW và có thể thực hiện vai trò nhà tạo lập thị trường, như NHTM, công ty chứng khoán, công ty tài chính. NHTW tiếp cận NVTTM theo hai hướng: Dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHTW ngay lập tức mua vào hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn. Nếu thị trường có dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ hoặc dự trữ trong thời gian tới là thiếu ổn định thì NHTW thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các hợp đồng mua lại trong trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng các giao dịch mua bán đảo ngược khi muốn giảm dự trữ tạm thời. Như vậy, có hai hình thức giao dịch chủ yếu là hình thức mua bán hẳn và hình thức mua bán có thời hạn. Giao dịch mua - bán hẳn (giao dịch không hoàn lại): là các giao dịch mua bán GTCG của NHTW theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường đồng thời chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua. Phương thức này đòi hỏi GTCG có thời hạn còn lại tối đa theo quy định mới được phép mua bán. Tác động của giao dịch này đối với dự trữ ngân hàng thường là dài hạn. Giao dịch mua bán có kỳ hạn (giao dịch có thời hạn): là việc bên bán bán và chuyển giao GTCG cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở hữu GTCG đó sau thời gian nhất định nhằm mục đích giao dịch tạm thời để điều tiết vốn khả dụng của ngân hàng một cách linh hoạt. Giao dịch mua bán có kỳ hạn bao gồm: hợp đồng mua lại (Repos) và bán - mua đảo ngược (Repos đảo ngược). Trong đó, Repos được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn tăng dự trữ tạm thời còn Repos đảo ngược được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn giảm dự trữ tạm thời. Repos: khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực tiếp vào việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động khi hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ thống tiền gửi tạm thời. Repos đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao dịch theo Repos đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán ngay chứng khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các chứng khoán từ nhà môi giới đó. Bản chất của các giao dịch theo các hợp đồng Repos là một khoản cho vay của NHTW có bảo đảm bằng các GTCG có tính thị trường cao. Các giao dịch mua bán có kỳ hạn được sử dụng chủ yếu trong NVTTM do các lý do: (i) Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ ngân hàng; (ii) Chi phí giao dịch thấp hơn các giao dịch mua bán hẳn; (iii) Thích hợp trong trường hợp các định hướng của CSTT không hoàn hảo dẫn đến phải sử dụng các giải pháp khắc phục; (iiii) Làm giảm bớt thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW. 1.3.4. Xác định giá mua, giá bán GTCG 1.3.4.1. Trường hợp mua hoặc bán có kỳ hạn Giá trị GTCG tại thời điểm định giá Đối với GTCG thanh toán lãi ngay khi phát hành: Đối với giấy tờ có giá ngắn hạn, thanh toán lãi ngay khi phát hành: Trong đó: G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá MG: Mệnh giá của GTCG T: Thời hạn còn lại của GTCG (số ngày) L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm) Đối với GTCG dài hạn, thanh toán lãi ngay khi phát hành: Trong đó: G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá MG: Mệnh giá của GTCG T: Thời hạn còn lại của GTCG (số ngày) L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm) Đối với GTCG thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn: Đối với GTCG ngắn hạn, thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn: Trong đó: G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá GT: Giá trị của GTCG khi đến hạn thanh toán, gồm mệnh giá & tiền lãi MG: Mệnh giá T: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá (số ngày) L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm) Ls: Lãi suất phát hành của GTCG (%/năm) n: Kỳ hạn GTCG (số ngày) Đối với GTCG dài hạn, thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn Trong đó: GT = MG x [1+ ( Ls x n)] G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá GT: Giá trị của GTCG khi đến hạn thanh toán, gồm mệnh giá và tiền lãi MG: Mệnh giá T: Thời hạn còn lại của GTCG (số ngày) L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm) Ls: Lãi suất phát hành của GTCG (%/năm) n: Kỳ hạn GTCG (năm) Đối với GTCG dài hạn, thanh toán gốc, lãi một lần khi đến hạn: Trong đó: GT = MG x (1 + Ls)n G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá GT: Giá trị của GTCG khi đến hạn thanh toán, gồm mệnh giá và tiền lãi MG: Mệnh giá T: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá (số ngày) L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu (%/năm) Ls: Lãi suất phát hành của GTCG (%/năm) n: Kỳ hạn GTCG (năm) Đối với giấy tờ có giá dài hạn, thanh toán lãi định kỳ: Trong đó: G: Giá trị GTCG tại thời điểm định giá Ci: Số tiền thanh toán lãi, gốc lần thứ i i: Lần thanh toán lãi, gốc thứ i L: Lãi suất thống nhất hoặc lãi suất riêng lẻ (trường hợp đấu thầu lãi suất) hoặc lãi suất do NHTW thông báo (trường hợp đấu thầu khối lượng) tại phiên đấu thầu k: Số lần thanh toán lãi trong một năm Ti: Thời hạn tính từ ngày định giá đến ngày thanh toán lãi, gốc lần thứ i Giá
Luận văn liên quan