Định hướng xây dựng pháp luật phá sản các tổ chức tín dụng

Tiến sĩ, Khoa Luật Thương mại -ĐH Luật TP.HCM Phá sản các tổ chức tín dụng ( các ngân hàng và chế định tài chính trung gian phi ngân hàng -TCTD) là một trong những vấn đề phức tạp nhất hiện nay không chỉ dưới phương diện hoạch định, thực hiện chính sách tài chính -tiền tệ quốc gia mà còn dưới phương diện nghiên cứu và áp dụng pháp luật. Trong các tài liệu nghiên cứu, các tác giả thường né tránh vấn đề mang tính “nhạy cảm” này, vì cho rằng đây là vấn đề thuộc “vùng cấm” trong chính sách điều tiết kinh tế của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng. Song nền kinh tế thị trường vẫn vận hành theo những qui luật vốn có của nó, các ngân hàng phải chịu nhiều rủi ro từ nhiều yếu tố khác nhau, có thể mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản.

pdf36 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng xây dựng pháp luật phá sản các tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NGUYỄN VĂN VÂN Tiến sĩ, Khoa Luật Thương mại - ĐH Luật TP.HCM Phá sản các tổ chức tín dụng ( các ngân hàng và chế định tài chính trung gian phi ngân hàng - TCTD) là một trong những vấn đề phức tạp nhất hiện nay không chỉ dưới phương diện hoạch định, thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia mà còn dưới phương diện nghiên cứu và áp dụng pháp luật. Trong các tài liệu nghiên cứu, các tác giả thường né tránh vấn đề mang tính “nhạy cảm” này, vì cho rằng đây là vấn đề thuộc “vùng cấm” trong chính sách điều tiết kinh tế của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng. Song nền kinh tế thị trường vẫn vận hành theo những qui luật vốn có của nó, các ngân hàng phải chịu nhiều rủi ro từ nhiều yếu tố khác nhau, có thể mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản. Một thực tế dễ dàng nhận thấy là cho đến thời điểm hiện nay, sau 8 năm thực hiện “Luật Phá sản doanh nghiệp”1, Toà kinh tế chưa tuyên bố phá sản một tổ chức tín dụng nào. Không phải là hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn vững mạnh mà do pháp luật về phá sản TCTD chưa có một văn bản pháp luật nào rõ ràng mà chỉ có sự dẫn chiếu rất mơ hồ: “Luật các TCTD” ngày 12/12/1997 dẫn chiếu sang “Luật Phá sản doanh nghiệp”; “Luật phá sản doanh nghiệp” trao quyền cho Chính phủ qui định cụ thể, Nghị định 189/CP của Chính phủ lại dẫn chiếu ngược về “Luật Phá sản Doanh nghiệp”. Trong khi đó tự bản thân “Luật phá sản doanh nghiệp” không thể điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh vực phá sản các TCTD. Theo Nghị quyết của UBTVQH số 286/2002/NQ- UBTVQH10 ngày 29/1/2002 về chương trình xây dựng Luật và pháp lệnh năm 2002, Dự án Luật phá sản doanh nghiệp (sửa đổi) đang được chuẩn bị bởi Toà án nhân dân tối cao. Trong các dự thảo lần I và II chưa có sự chú ý đúng mức đến vấn đề phá sản các loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó có các TCTD. Thiết nghĩ, việc hoàn thiện pháp luật phá sản lần này phải là cơ hội duy nhất có thể giải quyết một cách dứt điểm và rõ ràng vấn đề phá sản các TCTD có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp hay không? và nếu có thì nội dung của Luật phá sản phải như thế nào? 1/ Kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật về phá sản ngân hàng của một số quốc gia trên thế giới. - Cộng hòa Liên bang Nga: Là một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, cùng hệ thống pháp luật XHCN cũ... cho nên CHLB Nga có một số điều kiện, bối cảnh tương đồng với Việt Nam. Nghiên cứu pháp luật phá sản nói chung và pháp luật phá sản các TCTD nói riêng của CHLB Nga có một ý nghĩa nhất định trong nghiên cứu xây dựng pháp luật phá sản Việt Nam. Luật phá sản đầu tiên kể từ sau khi bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế của CHLB Nga được thông qua ngày 19-11-19922. Sáu năm sau, ngày 8-01-1998 Luật Phá sản doanh nghiệp3 được ban hành thay thế cho Luật phá sản năm 1992. Trong lĩnh vực ngân hàng, ngày 25- 2-1999 Viện Đuma Quốc gia CHLB Nga thông qua Luật Phá sản các TCTD, sau đó được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất vào ngày 2/2/2000 và lần thứ hai ngày 19/6/20014. Như vậy, tại thời điểm hiện nay trên lãnh thổ CHLB Nga, các quan hệ về phá sản các TCTD chịu sự điều chỉnh bởi Luật PSDN ngày 8/1/1998 với tính chất là luật chung vừa chịu sự điều chỉnh của Luật PS các TCTD với tính chất là luật chuyên ngành. - Cộng hòa Pháp: Pháp luật về phá sản của Pháp hiện nay phần lớn được xây dựng trong giai đoạn cải cách pháp luật 1985-1986. Các văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình phục hồi khả năng thanh toán và phá sản ở Pháp hiện nay phải kể đến: Đạo luật số 85-98 ngày 25/1/1985 về phục hồi doanh nghiệp và thanh toán tài sản của doanh nghiệp phá sản theo thủ tục toà án; Đạo luật số 85-99 ngày 25/4/1985 về người điều khiển hội nghị chủ nợ, quản lý tài sản, giám định tình trạng doanh nghiệp5. Trong các tài liệu khoa học của các luật gia Pháp hiện nay đều thống nhất quan điểm cho rằng việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản các ngân hàng và các doanh nghiệp trong lĩnh vực tín dụng, tài chính phải tuân thủ theo những qui định pháp luật đặc biệt. Quan điểm này cũng là quan điểm chính thức của các nhà lập pháp Cộng hòa Pháp trong thời gian gần đây. Thật vậy, trước 1999, vấn đề xử lý phá sản các ngân hàng ở Pháp vẫn được điều chỉnh bằng các qui định pháp luật thông thường áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Từ ngày 6/6/1999 Luật sửa đổi bổ sung một số qui định về xử lý phá sản đối với các ngân hàng bắt đầu có hiệu lực áp dụng6. Sở dĩ có sự thay đổi về phạm vi điều chỉnh trong pháp luật về phá sản của Pháp là: Thứ nhất: trong thời gian gần đây ở Pháp cũng như trên thế giới có rất nhiều ngân hàng lâm vào tình trạng vỡ nợ ví dụ như Ngân hàng Palace Sterne bị phá sản vào năm 1995 với số nợ lên tới 12 tỷ Fr. Thứ hai: nếu như trước năm 1982 phần lớn hệ thống ngân hàng Pháp bị quốc hữu hóa và thuộc sở hữu nhà nước cho nên trong trường hợp các ngân hàng bị mất khả năng thanh toán thì nhà nước sẽ có những biện pháp khắc phục và giải quyết hậu quả theo những trình tự đặc biệt, thì đến sau 1997 Cộng hòa Pháp thực hiện chính sách tư hữu hoá hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, vì vậy, vấn đề phá sản các ngân hàng cũng phải được tiếp cận dưới giác độ mới. Thứ ba: tính phức tạp của vấn đề phá sản các ngân hàng cũng như hậu quả của nó cho xã hội và nền kinh tế. - Hoa Kỳ: Phần lớn các vấn đề liên quan đến mất khả năng thanh toán và phá sản tại Hoa Kỳ chịu sự điều chỉnh của luật liên bang, ví dụ: Đạo luật số 95-598 về mất khả năng thanh toán và phá sản được Nghị viện Hoa Kỳ thông qua ngày 6/10/1978 có hiệu lực từ ngày 1/10/1979. Ngoài ra, Tòa tối cao Hoa Kỳ công bố các tập án lệ và các hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến phá sản. Điểm đặc thù trong pháp luật về phá sản của Hoa Kỳ là các văn bản pháp luật kể trên không điều chỉnh quan hệ mất khả năng thanh toán và phá sản của các loại hình doanh nghiệp đặc biệt như: ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán, các tập đoàn đường sắt, các tổ hợp xây dựng... mà được qui định trong các đạo luật riêng biệt7. Tóm lại: Pháp luật về phá sản của đa số các quốc gia trên thế giới không đồng nhất cơ sở, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của Ngân hàng và các định chế tài chính trung gian (các TCTD) với các loại hình doanh nghiệp khác, thông thường tồn tại các văn bản riêng điều chỉnh quan hệ liên quan đến phá sản của các TCTD. 2/ Phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam (Mối liên hệ giữa pháp luật phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản TCTD) Tại Đ.1 Luật phá sản doanh nghiệp qui định: “Luật này áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Chính phủ qui định cụ thể việc thi hành luật này đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng”. Mặt khác, tại Đ.4 Nghị định 189/1994/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp giải thích: các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ an ninh quốc phòng và dịch vụ công cộng quan trọng phải là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất sửa chữa vũ khí, khí tài trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; các ngành điện, bưu chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không, thủy lợi... trong đó có các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính tiền tệ và bảo hiểm. Vậy, TCTD là một trong những loại hình doanh nghiệp đặc biệt phục vụ dịch vụ công cộng quan trọng theo khái niệm trong Đ.1 Luật PSDN cho nên khi các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì sẽ áp dụng những thủ tục đặc biệt qui định tại Đ.4, 5 và 6 NĐ 189/CP như sau: 1. Khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải báo cáo ngay bằng văn bản nộp cho cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp. 2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo, Thủ trưởng cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp phải xem xét, quyết định các biện pháp cần thiết nhằm phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp. 3. Trong trường hợp các biện pháp phục hồi vượt quá khả năng của mình thì Thủ trưởng cơ quan ra quyết định thành lập báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định các biện pháp hỗ trợ hay không hỗ trợ doanh nghiệp đó. Tòa án chỉ ra Quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng sau khi đã nhận được văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc của Thủ trưởng cơ quan nhà nước ra quyết định thành lập doanh nghiệp về việc không áp dụng các biện pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp đó. Sau khi Toà án đã thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản thì thủ tục giải quyết phá sản đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng được tiến hành theo qui định của Luật Phá sản doanh nghiệp, Nghị định này (NĐ189) và các văn bản pháp qui khác liên quan đến việc giải quyết phá sản doanh nghiệp (T.g nhấn mạnh). Vậy, theo nội dung những qui định pháp luật viện dẫn trên, có thể kết luận rằng: các TCTD là những doanh nghiệp đặc biệt song vẫn áp dụng thủ tục trình tự giải quyết phá sản được qui định trong Luật PSDN ở giai đoạn sau khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Song, trong thực tế các qui định của Luật PSDN Việt Nam hiện hành không trong khả năng điều chỉnh được thủ tục phá sản TCTD, bởi tự bản thân Luật Phá sản doanh nghiệp không dự liệu được những đặc thù của việc phá sản một TCTD. Vậy, để khắc phục bất cập trên chúng tôi nhận thấy có thể xây dựng pháp luật phá sản TCTD theo hai hướng sau: 1. Ban hành Luật phá sản TCTD với tính chất như là một văn bản luật chuyên ngành chứa đựng qui phạm pháp luật về phá sản TCTD. Phá sản TCTD vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PSDN song phải ưu tiên áp dụng Luật Phá sản TCTD (với tư cách như là luật chuyên ngành). Trong Luật Phá sản TCTD chỉ chứa đựng các qui định pháp luật mang tính đặc thù đối với phá sản TCTD mà không lặp lại các qui định tương tự trong luật Phá sản DN. 2. Nếu chưa có điều kiện có thể ban hành một văn bản luật riêng về phá sản TCTD, thiết nghĩ, trong Luật PSDN cần ít nhất một chương riêng biệt qui định những đặc thù trong phá sản TCTD. Nếu thiếu các qui định đặc thù này thì luật PSDN sẽ hoàn toàn không áp dụng được đối với các TCTD. 3/ Khái niệm tình trạng phá sản Theo pháp luật Việt Nam hiện hành (Đ2 LPSDN; Đ3 NĐ 189/1994/NĐ-CP) “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Theo chúng tôi, khái niệm phá sản doanh nghiệp trong Luật PSDN 1993 (và cả trong Dự thảo Luật PSDN sửa đổi lần I và II) không thể đồng nhất với khái niệm phá sản TCTD. Sự không đồng nhất thể hiện ở chỗ: Thứ nhất: Đối với các TCTD hiệu quả kinh doanh không hoàn toàn là yếu tố duy nhất quyết định tình trạng khả năng thanh toán của nó. Không loại trừ những ngân hàng lớn hoạt động có lãi liên tục qua các năm cũng có thể bị lâm vào tình trạng tạm thời mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản. Không thanh toán những khoản nợ đến hạn có thể có nhiều lý do, ví dụ: Thua lỗ, ảnh hưởng khủng hoảng tài chính, tiền tệ quốc tế, khu vực hoặc đơn giản có khi chỉ là những tin đồn nhảm làm cho người gửi tiền nao núng bất an và họ đồng loạt đến rút tiền, ngân hàng không đáp ứng được hoặc tài sản hiện có của TCTD không có tính thanh khoản cao như các tài sản thế chấp là bất động sản hoặc ngân hàng dùng vốn ngắn hạn, không kỳ hạn đầu tư vào những khoản tín dụng dài hạn vượt quá tỷ lệ cho phép... Thứ hai: Hiểu khái niệm mất khả năng thanh toán là tình trạng khi tổng giá trị các khoản nợ lớn hơn tổng giá trị của các tài sản có là chưa chính xác, ít nhất là đối với các TCTD. TCTD có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, vốn tự có của TCTD rất nhỏ so với vốn huy động. Theo chúng tôi mất khả năng thanh toán chỉ là tình trạng TCTD không chi trả được các khoản nợ khi đến hạn, tức là ở thời điểm bất kỳ, khi khoản nợ đến hạn ngân hàng không có tiền để chi trả tức là mất khả năng thanh toán. Hầu hết các khoản nợ mà TCTD phải thanh toán đều là các khoản tiền (tiền gửi, các khoản vay, các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, tín phiếu, séc, hối phiếu đã chấp nhận ...). Đây là các loại nghĩa vụ tiền tệ, TCTD không thể gán nợ, trừ nợ bằng các tài sản khác nếu không có sự đồng ý của chủ nợ. Vì vậy, khác với các doanh nghiệp khác, đối tượng của nghĩa vụ thanh toán của các TCTD là các khoản tiền mà không thể là các tài sản khác. Thứ ba: Thời hạn ngưng thanh toán của con nợ là các TCTD cần thiết phải rút ngắn hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong thực tế hoạt động ngân hàng là đi vay để cho vay, nếu một ngân hàng nào đó trì hoãn hoặc ngưng việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ chỉ hai hay ba ngày cho một vài chủ nợ nào đó ngay tức khắc sẽ xuất hiện những nghi ngờ, tâm lý bất an cho những người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền không kỳ hạn, họ sẽ ồ ạt đến rút tiền, tạo một cơn sốt gây nhiều hậu quả bất lợi cho hệ thống ngân hàng cũng như cho nền kinh tế nói chung. Mặt khác, khái niệm “tình trạng phá sản” là tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nhưng không thể phục hồi theo trình tự ngoài tòa án và do Tòa án tuyên bố. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trừ Toà án được quyền tuyên bố (ban bố) (xác nhận)8 một doanh nghiệp (“thương nhân” theo Dự thảo) nào đó lâm vào tình trạng phá sản. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền này. Vì vậy, theo chúng tôi: Nội dung khái niệm tình trạng phá sản TCTD có thể là: “Phá sản các TCTD là tình trạng được tuyên bởi Toà án theo đúng trình tự, thủ tục được qui định trong Luật này9 và các qui định pháp luật khác, áp dụng đối với các TCTD không có khả thanh toán cho các chủ nợ các nghĩa vụ tiền tệ khi đến hạn và (hoặc) không thực hiện được các khoản chi trả bắt buộc”. 4/ Chủ thể được quyền yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản TCTD Pháp luật về phá sản TCTD các quốc gia trên thế giới qui định rõ ràng những chủ thể được quyền (nghĩa vụ) nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản, ví dụ ở CHLB Nga các đối tượng sau có quyền (nghĩa vụ) yêu cầu Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản các TCTD: Chủ nợ; tự bản thân TCTD mắc nợ và chủ sở hữu của nó; tập thể người làm công ăn lương, Viện kiểm sát, Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga10; tại Hoa Kỳ: Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi tín dụng (Federal Deposit Insurance Corporation -FDIC) và Ủy ban Thanh tra tài chính cũng có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản các ngân hàng11. Cho đến thời điểm hiện nay ở Việt Nam, theo qui định tại NĐ 189/NĐ-CP thì TCTD là những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng cho nên khi nó lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì tự bản thân nó phải báo cho cơ quan chủ quản, tiến hành các biện pháp phục hồi, sau khi có sự đồng ý của Chính phủ thì Toà án mới có quyền mở thủ tục tuyên bố phá sản. Qui trình, thủ tục trên hoàn toàn không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay, bởi các lý do sau: Thứ nhất: Khác với thời điểm ban hành Luật phá sản doanh nghiệp, hiện nay xuất hiện các TCTD cổ phần, liên doanh, TCTD phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài... chúng hoàn toàn không còn là những “doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng” nữa. Thứ hai: Tinh thần cơ bản của việc tuyên bố phá sản là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ nợ, vì vậy pháp luật không nên tước đi quyền của chủ nợ được yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản đối với TCTD là con nợ. Mặt khác, có thể dễ dàng nhận thấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý hoạt động của các TCTD. NHNNVN ban hành các tiêu chuẩn an toàn tài chính và chế độ tài chính cho các TCTD, đồng thời thực hiện việc giám sát tất cả mọi diễn biến tình hình tài chính của TCTD chịu trách nhiệm về việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tiến hành các biện pháp phục hồi khi TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, vì vậy, NHNNVN phải là một trong những chủ thể có nghĩa vụ yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản TCTD. Từ những lý do trên, thiết nghĩ, khi soạn thảo các văn bản pháp luật về phá sản TCTD nên tính đến những chủ thể có quyền (nghĩa vụ) yêu cầu Toà án mở thủ tục tuyên bố phá sản TCTD, như sau: 1- Tự bản thân TCTD mắc nợ; 2- Chủ nợ của TCTD (kể cả các cá nhân có quyền yêu cầu trả nợ theo hợp đồng tài khoản tiền gửi và (hoặc) hợp đồng tài khoản thanh toán...). Các chủ nợ của TCTD chỉ có thể nộp đơn đến Tòa án yêu cầu tuyên bố phá sản sau khi thỏa mãn các điều kiện sau: a) đã có yêu cầu bằng văn bản cho NHNNVN để áp dụng các biện pháp phục hồi hoặc thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của TCTD mắc nợ và b) khoản nợ phải lớn hơn một mức nhất định nào đó chứ không phải tất cả các chủ nợ lớn nhỏ đều có quyền này (Ví dụ Luật CHLB Nga qui định khoản nợ phải lớn hơn 1000 lần mức lương tối thiểu); 3- NHNNVN (sau khi đã áp dụng các biện pháp phục hồi năng lực thanh toán theo trình tự kiểm soát đặc biệt mà không mang lại hiệu quả); 4- Người lao động; 5- Viện Kiểm sát nhân dân (khi phát hiện các dấu hiệu phá sản hoặc đại diện cho các chủ nợ là Chính phủ, UBND hoặc các nghĩa vụ tài chính công mà con nợ phải trả); 6- Cơ quan thuế, các cơ quan tài chính, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế. 5/ Các biện pháp nhằm phục hồi năng lực thanh toán của các TCTD Nếu như pháp luật về phá sản trên thế giới trong những thập niên 60, 70 trở về trước chú trọng đến chế tài đối với bên bị phá sản, phá sản đồng nghĩa với sự khánh kiệt và bị trừng phạt. Ngày nay, nhận thức về phá sản được biến chuyển theo hướng nhân đạo hơn, một trong những nhiệm vụ của pháp luật phá sản là thiết lập cơ chế pháp lý để phục hồi, cứu cánh cho doanh nghiệp, chỉ tuyên bố phá sản khi không có khả năng phục hồi hoặc khi các biện pháp phục hồi thất bại. Xây dựng pháp luật phá sản các TCTD Việt Nam cũng không nằm ngoài mục đích và nguyên tắc trên. Mặc khác, xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như đặc tính dễ tổn thương của các TCTD trong hệ thống tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Một ngân hàng bị phá sản, hậu quả không chỉ đối với bản thân ngân hàng hoặc các chủ nợ của ngân hàng đó mà là sự hoảng loạn bất an theo phản ứng dây chuyền của toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Vì vậy, xu hướng chung hiện nay trong lĩnh vực pháp luật về phá sản các ngân hàng là xây dựng một cơ chế pháp lý nhằm phục hồi năng lực thanh toán của các TCTD tạm thời mất khả năng thanh toán sau đó nếu không thành công mới là thủ tục tuyên bố phá sản và thanh toán tư pháp tài sản của TCTD. Theo qui định pháp luật Việt Nam hiện nay, cơ chế pháp lý nhằm phục hồi khả năng thanh toán của một TCTD bao gồm: - Phục hồi khả năng thanh toán trước thời điểm yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản (hay gọi là kiểm soát đặc biệt), do NHNNVN thực hiện và được qui định trong Luật các TCTD ngày 12/12/1997. - Phục hồi TCTD sau khi quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản do Hội nghị chủ nợ thực hiện và chịu sự điều chỉnh bởi Luật phá sản doanh nghiệp như bất kỳ doanh nghiệp nào (Hiện nay, hầu như không quốc gia nào áp dụng giai đoạn này cho TCTD). a) Phục hồi TCTD trước thời điểm yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD (Kiểm soát đặc biệt): Theo Đ92 Luật các TCTD Việt Nam ngày 12/12/1997 kiểm soát đặc biệt có thể
Luận văn liên quan