Tiến sĩ, Khoa Luật Thương mại -ĐH Luật TP.HCM
Phá sản các tổ chức tín dụng ( các ngân hàng và chế 
định tài chính trung gian phi ngân hàng -TCTD) là 
một trong những vấn đề phức tạp nhất hiện nay 
không chỉ dưới phương diện hoạch định, thực hiện 
chính sách tài chính -tiền tệ quốc gia mà còn dưới 
phương diện nghiên cứu và áp dụng pháp luật. Trong 
các tài liệu nghiên cứu, các tác giả thường né tránh 
vấn đề mang tính “nhạy cảm” này, vì cho rằng đây là 
vấn đề thuộc “vùng cấm” trong chính sách điều tiết 
kinh tế của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng. 
Song nền kinh tế thị trường vẫn vận hành theo những 
qui luật vốn có của nó, các ngân hàng phải chịu nhiều 
rủi ro từ nhiều yếu tố khác nhau, có thể mất khả năng 
thanh toán và dẫn đến phá sản.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
36 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2407 | Lượt tải: 5
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng xây dựng pháp luật phá sản các tổ chức tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT PHÁ 
SẢN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 
NGUYỄN VĂN VÂN 
Tiến sĩ, Khoa Luật Thương mại - ĐH Luật TP.HCM 
Phá sản các tổ chức tín dụng ( các ngân hàng và chế 
định tài chính trung gian phi ngân hàng - TCTD) là 
một trong những vấn đề phức tạp nhất hiện nay 
không chỉ dưới phương diện hoạch định, thực hiện 
chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia mà còn dưới 
phương diện nghiên cứu và áp dụng pháp luật. Trong 
các tài liệu nghiên cứu, các tác giả thường né tránh 
vấn đề mang tính “nhạy cảm” này, vì cho rằng đây là 
vấn đề thuộc “vùng cấm” trong chính sách điều tiết 
kinh tế của nhà nước đối với hệ thống ngân hàng. 
Song nền kinh tế thị trường vẫn vận hành theo những 
qui luật vốn có của nó, các ngân hàng phải chịu nhiều 
rủi ro từ nhiều yếu tố khác nhau, có thể mất khả năng 
thanh toán và dẫn đến phá sản. 
Một thực tế dễ dàng nhận thấy là cho đến thời điểm 
hiện nay, sau 8 năm thực hiện “Luật Phá sản doanh 
nghiệp”1, Toà kinh tế chưa tuyên bố phá sản một tổ 
chức tín dụng nào. Không phải là hệ thống ngân hàng 
Việt Nam hoàn toàn vững mạnh mà do pháp luật về 
phá sản TCTD chưa có một văn bản pháp luật nào rõ 
ràng mà chỉ có sự dẫn chiếu rất mơ hồ: “Luật các 
TCTD” ngày 12/12/1997 dẫn chiếu sang “Luật Phá 
sản doanh nghiệp”; “Luật phá sản doanh nghiệp” trao 
quyền cho Chính phủ qui định cụ thể, Nghị định 
189/CP của Chính phủ lại dẫn chiếu ngược về “Luật 
Phá sản Doanh nghiệp”. Trong khi đó tự bản thân 
“Luật phá sản doanh nghiệp” không thể điều chỉnh 
quan hệ phát sinh trong lĩnh vực phá sản các TCTD. 
Theo Nghị quyết của UBTVQH số 286/2002/NQ-
UBTVQH10 ngày 29/1/2002 về chương trình xây 
dựng Luật và pháp lệnh năm 2002, Dự án Luật phá 
sản doanh nghiệp (sửa đổi) đang được chuẩn bị bởi 
Toà án nhân dân tối cao. Trong các dự thảo lần I và II 
chưa có sự chú ý đúng mức đến vấn đề phá sản các 
loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó có các 
TCTD. Thiết nghĩ, việc hoàn thiện pháp luật phá sản 
lần này phải là cơ hội duy nhất có thể giải quyết một 
cách dứt điểm và rõ ràng vấn đề phá sản các TCTD 
có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh 
nghiệp hay không? và nếu có thì nội dung của Luật 
phá sản phải như thế nào? 
1/ Kinh nghiệm điều chỉnh bằng pháp luật về phá sản 
ngân hàng của một số quốc gia trên thế giới. 
- Cộng hòa Liên bang Nga: Là một quốc gia có nền 
kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, cùng hệ 
thống pháp luật XHCN cũ... cho nên CHLB Nga có 
một số điều kiện, bối cảnh tương đồng với Việt Nam. 
Nghiên cứu pháp luật phá sản nói chung và pháp luật 
phá sản các TCTD nói riêng của CHLB Nga có một ý 
nghĩa nhất định trong nghiên cứu xây dựng pháp luật 
phá sản Việt Nam. 
Luật phá sản đầu tiên kể từ sau khi bắt đầu chuyển 
đổi nền kinh tế của CHLB Nga được thông qua ngày 
19-11-19922. Sáu năm sau, ngày 8-01-1998 Luật Phá 
sản doanh nghiệp3 được ban hành thay thế cho Luật 
phá sản năm 1992. 
Trong lĩnh vực ngân hàng, ngày 25- 2-1999 Viện 
Đuma Quốc gia CHLB Nga thông qua Luật Phá sản 
các TCTD, sau đó được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất 
vào ngày 2/2/2000 và lần thứ hai ngày 19/6/20014. 
Như vậy, tại thời điểm hiện nay trên lãnh thổ CHLB 
Nga, các quan hệ về phá sản các TCTD chịu sự điều 
chỉnh bởi Luật PSDN ngày 8/1/1998 với tính chất là 
luật chung vừa chịu sự điều chỉnh của Luật PS các 
TCTD với tính chất là luật chuyên ngành. 
- Cộng hòa Pháp: Pháp luật về phá sản của Pháp hiện 
nay phần lớn được xây dựng trong giai đoạn cải cách 
pháp luật 1985-1986. Các văn bản pháp luật quan 
trọng điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá 
trình phục hồi khả năng thanh toán và phá sản ở Pháp 
hiện nay phải kể đến: Đạo luật số 85-98 ngày 
25/1/1985 về phục hồi doanh nghiệp và thanh toán tài 
sản của doanh nghiệp phá sản theo thủ tục toà án; 
Đạo luật số 85-99 ngày 25/4/1985 về người điều 
khiển hội nghị chủ nợ, quản lý tài sản, giám định tình 
trạng doanh nghiệp5. 
Trong các tài liệu khoa học của các luật gia Pháp hiện 
nay đều thống nhất quan điểm cho rằng việc giải 
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản các ngân hàng và các 
doanh nghiệp trong lĩnh vực tín dụng, tài chính phải 
tuân thủ theo những qui định pháp luật đặc biệt. Quan 
điểm này cũng là quan điểm chính thức của các nhà 
lập pháp Cộng hòa Pháp trong thời gian gần đây. 
Thật vậy, trước 1999, vấn đề xử lý phá sản các ngân 
hàng ở Pháp vẫn được điều chỉnh bằng các qui định 
pháp luật thông thường áp dụng chung cho tất cả các 
loại hình doanh nghiệp. Từ ngày 6/6/1999 Luật sửa 
đổi bổ sung một số qui định về xử lý phá sản đối với 
các ngân hàng bắt đầu có hiệu lực áp dụng6. Sở dĩ có 
sự thay đổi về phạm vi điều chỉnh trong pháp luật về 
phá sản của Pháp là: 
Thứ nhất: trong thời gian gần đây ở Pháp cũng như 
trên thế giới có rất nhiều ngân hàng lâm vào tình 
trạng vỡ nợ ví dụ như Ngân hàng Palace Sterne bị 
phá sản vào năm 1995 với số nợ lên tới 12 tỷ Fr. 
Thứ hai: nếu như trước năm 1982 phần lớn hệ thống 
ngân hàng Pháp bị quốc hữu hóa và thuộc sở hữu nhà 
nước cho nên trong trường hợp các ngân hàng bị mất 
khả năng thanh toán thì nhà nước sẽ có những biện 
pháp khắc phục và giải quyết hậu quả theo những 
trình tự đặc biệt, thì đến sau 1997 Cộng hòa Pháp 
thực hiện chính sách tư hữu hoá hầu hết các doanh 
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, vì 
vậy, vấn đề phá sản các ngân hàng cũng phải được 
tiếp cận dưới giác độ mới. 
Thứ ba: tính phức tạp của vấn đề phá sản các ngân 
hàng cũng như hậu quả của nó cho xã hội và nền kinh 
tế. 
- Hoa Kỳ: Phần lớn các vấn đề liên quan đến mất khả 
năng thanh toán và phá sản tại Hoa Kỳ chịu sự điều 
chỉnh của luật liên bang, ví dụ: Đạo luật số 95-598 về 
mất khả năng thanh toán và phá sản được Nghị viện 
Hoa Kỳ thông qua ngày 6/10/1978 có hiệu lực từ 
ngày 1/10/1979. Ngoài ra, Tòa tối cao Hoa Kỳ công 
bố các tập án lệ và các hướng dẫn về các vấn đề liên 
quan đến phá sản. 
Điểm đặc thù trong pháp luật về phá sản của Hoa Kỳ 
là các văn bản pháp luật kể trên không điều chỉnh 
quan hệ mất khả năng thanh toán và phá sản của các 
loại hình doanh nghiệp đặc biệt như: ngân hàng, công 
ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty chứng khoán, 
các tập đoàn đường sắt, các tổ hợp xây dựng... mà 
được qui định trong các đạo luật riêng biệt7. 
Tóm lại: Pháp luật về phá sản của đa số các quốc gia 
trên thế giới không đồng nhất cơ sở, trình tự, thủ tục 
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của Ngân hàng 
và các định chế tài chính trung gian (các TCTD) với 
các loại hình doanh nghiệp khác, thông thường tồn tại 
các văn bản riêng điều chỉnh quan hệ liên quan đến 
phá sản của các TCTD. 
2/ Phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp 
Việt Nam (Mối liên hệ giữa pháp luật phá sản doanh 
nghiệp và pháp luật về phá sản TCTD) 
Tại Đ.1 Luật phá sản doanh nghiệp qui định: “Luật 
này áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình 
thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp 
luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Chính 
phủ qui định cụ thể việc thi hành luật này đối với các 
doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh 
và dịch vụ công cộng quan trọng”. 
Mặt khác, tại Đ.4 Nghị định 189/1994/NĐ-CP của 
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh 
nghiệp giải thích: các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ 
an ninh quốc phòng và dịch vụ công cộng quan trọng 
phải là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh 
vực sản xuất sửa chữa vũ khí, khí tài trang bị chuyên 
dùng cho quốc phòng, an ninh; các ngành điện, bưu 
chính viễn thông, vận tải đường sắt, hàng không, thủy 
lợi... trong đó có các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài 
chính tiền tệ và bảo hiểm. 
Vậy, TCTD là một trong những loại hình doanh 
nghiệp đặc biệt phục vụ dịch vụ công cộng quan 
trọng theo khái niệm trong Đ.1 Luật PSDN cho nên 
khi các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng thanh 
toán thì sẽ áp dụng những thủ tục đặc biệt qui định tại 
Đ.4, 5 và 6 NĐ 189/CP như sau: 
1. Khi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ 
đến hạn thì đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải 
báo cáo ngay bằng văn bản nộp cho cơ quan ra quyết 
định thành lập doanh nghiệp. 
2. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo 
cáo, Thủ trưởng cơ quan ra quyết định thành lập 
doanh nghiệp phải xem xét, quyết định các biện pháp 
cần thiết nhằm phục hồi khả năng thanh toán nợ đến 
hạn của doanh nghiệp. 
3. Trong trường hợp các biện pháp phục hồi vượt quá 
khả năng của mình thì Thủ trưởng cơ quan ra quyết 
định thành lập báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem 
xét, quyết định các biện pháp hỗ trợ hay không hỗ trợ 
doanh nghiệp đó. Tòa án chỉ ra Quyết định mở thủ 
tục giải quyết yêu cầu phá sản đối với các doanh 
nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch 
vụ công cộng quan trọng sau khi đã nhận được văn 
bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc của Thủ trưởng 
cơ quan nhà nước ra quyết định thành lập doanh 
nghiệp về việc không áp dụng các biện pháp cần thiết 
phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh 
nghiệp đó. 
Sau khi Toà án đã thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá 
sản thì thủ tục giải quyết phá sản đối với các doanh 
nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng an ninh và dịch 
vụ công cộng quan trọng được tiến hành theo qui 
định của Luật Phá sản doanh nghiệp, Nghị định này 
(NĐ189) và các văn bản pháp qui khác liên quan đến 
việc giải quyết phá sản doanh nghiệp (T.g nhấn 
mạnh). 
Vậy, theo nội dung những qui định pháp luật viện 
dẫn trên, có thể kết luận rằng: các TCTD là những 
doanh nghiệp đặc biệt song vẫn áp dụng thủ tục trình 
tự giải quyết phá sản được qui định trong Luật PSDN 
ở giai đoạn sau khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên 
bố phá sản. 
Song, trong thực tế các qui định của Luật PSDN Việt 
Nam hiện hành không trong khả năng điều chỉnh 
được thủ tục phá sản TCTD, bởi tự bản thân Luật Phá 
sản doanh nghiệp không dự liệu được những đặc thù 
của việc phá sản một TCTD. Vậy, để khắc phục bất 
cập trên chúng tôi nhận thấy có thể xây dựng pháp 
luật phá sản TCTD theo hai hướng sau: 
1. Ban hành Luật phá sản TCTD với tính chất như là 
một văn bản luật chuyên ngành chứa đựng qui phạm 
pháp luật về phá sản TCTD. Phá sản TCTD vẫn 
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PSDN song phải 
ưu tiên áp dụng Luật Phá sản TCTD (với tư cách như 
là luật chuyên ngành). Trong Luật Phá sản TCTD chỉ 
chứa đựng các qui định pháp luật mang tính đặc thù 
đối với phá sản TCTD mà không lặp lại các qui định 
tương tự trong luật Phá sản DN. 
2. Nếu chưa có điều kiện có thể ban hành một văn 
bản luật riêng về phá sản TCTD, thiết nghĩ, trong 
Luật PSDN cần ít nhất một chương riêng biệt qui 
định những đặc thù trong phá sản TCTD. Nếu thiếu 
các qui định đặc thù này thì luật PSDN sẽ hoàn toàn 
không áp dụng được đối với các TCTD. 
3/ Khái niệm tình trạng phá sản 
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành (Đ2 LPSDN; Đ3 
NĐ 189/1994/NĐ-CP) “Doanh nghiệp lâm vào tình 
trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị 
thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi áp dụng 
các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả 
năng thanh toán nợ đến hạn”. 
Theo chúng tôi, khái niệm phá sản doanh nghiệp 
trong Luật PSDN 1993 (và cả trong Dự thảo Luật 
PSDN sửa đổi lần I và II) không thể đồng nhất với 
khái niệm phá sản TCTD. Sự không đồng nhất thể 
hiện ở chỗ: 
Thứ nhất: Đối với các TCTD hiệu quả kinh doanh 
không hoàn toàn là yếu tố duy nhất quyết định tình 
trạng khả năng thanh toán của nó. Không loại trừ 
những ngân hàng lớn hoạt động có lãi liên tục qua 
các năm cũng có thể bị lâm vào tình trạng tạm thời 
mất khả năng thanh toán và có thể dẫn đến phá sản. 
Không thanh toán những khoản nợ đến hạn có thể có 
nhiều lý do, ví dụ: Thua lỗ, ảnh hưởng khủng hoảng 
tài chính, tiền tệ quốc tế, khu vực hoặc đơn giản có 
khi chỉ là những tin đồn nhảm làm cho người gửi tiền 
nao núng bất an và họ đồng loạt đến rút tiền, ngân 
hàng không đáp ứng được hoặc tài sản hiện có của 
TCTD không có tính thanh khoản cao như các tài sản 
thế chấp là bất động sản hoặc ngân hàng dùng vốn 
ngắn hạn, không kỳ hạn đầu tư vào những khoản tín 
dụng dài hạn vượt quá tỷ lệ cho phép... 
Thứ hai: Hiểu khái niệm mất khả năng thanh toán là 
tình trạng khi tổng giá trị các khoản nợ lớn hơn tổng 
giá trị của các tài sản có là chưa chính xác, ít nhất là 
đối với các TCTD. TCTD có hoạt động kinh doanh 
trong lĩnh vực tiền tệ, vốn tự có của TCTD rất nhỏ so 
với vốn huy động. Theo chúng tôi mất khả năng 
thanh toán chỉ là tình trạng TCTD không chi trả được 
các khoản nợ khi đến hạn, tức là ở thời điểm bất kỳ, 
khi khoản nợ đến hạn ngân hàng không có tiền để chi 
trả tức là mất khả năng thanh toán. Hầu hết các khoản 
nợ mà TCTD phải thanh toán đều là các khoản tiền 
(tiền gửi, các khoản vay, các giấy tờ có giá như kỳ 
phiếu, tín phiếu, séc, hối phiếu đã chấp nhận ...). Đây 
là các loại nghĩa vụ tiền tệ, TCTD không thể gán nợ, 
trừ nợ bằng các tài sản khác nếu không có sự đồng ý 
của chủ nợ. Vì vậy, khác với các doanh nghiệp khác, 
đối tượng của nghĩa vụ thanh toán của các TCTD là 
các khoản tiền mà không thể là các tài sản khác. 
Thứ ba: Thời hạn ngưng thanh toán của con nợ là các 
TCTD cần thiết phải rút ngắn hơn so với các loại 
hình doanh nghiệp khác. Trong thực tế hoạt động 
ngân hàng là đi vay để cho vay, nếu một ngân hàng 
nào đó trì hoãn hoặc ngưng việc thanh toán các nghĩa 
vụ tiền tệ chỉ hai hay ba ngày cho một vài chủ nợ nào 
đó ngay tức khắc sẽ xuất hiện những nghi ngờ, tâm lý 
bất an cho những người gửi tiền, đặc biệt là những 
người gửi tiền không kỳ hạn, họ sẽ ồ ạt đến rút tiền, 
tạo một cơn sốt gây nhiều hậu quả bất lợi cho hệ 
thống ngân hàng cũng như cho nền kinh tế nói chung. 
Mặt khác, khái niệm “tình trạng phá sản” là tình trạng 
của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nhưng 
không thể phục hồi theo trình tự ngoài tòa án và do 
Tòa án tuyên bố. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành 
không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trừ Toà án 
được quyền tuyên bố (ban bố) (xác nhận)8 một doanh 
nghiệp (“thương nhân” theo Dự thảo) nào đó lâm vào 
tình trạng phá sản. Chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền 
này. Vì vậy, theo chúng tôi: Nội dung khái niệm tình 
trạng phá sản TCTD có thể là: “Phá sản các TCTD là 
tình trạng được tuyên bởi Toà án theo đúng trình tự, 
thủ tục được qui định trong Luật này9 và các qui định 
pháp luật khác, áp dụng đối với các TCTD không có 
khả thanh toán cho các chủ nợ các nghĩa vụ tiền tệ 
khi đến hạn và (hoặc) không thực hiện được các 
khoản chi trả bắt buộc”. 
4/ Chủ thể được quyền yêu cầu mở thủ tục tuyên bố 
phá sản TCTD 
Pháp luật về phá sản TCTD các quốc gia trên thế giới 
qui định rõ ràng những chủ thể được quyền (nghĩa 
vụ) nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản, ví dụ ở 
CHLB Nga các đối tượng sau có quyền (nghĩa vụ) 
yêu cầu Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản 
các TCTD: Chủ nợ; tự bản thân TCTD mắc nợ và 
chủ sở hữu của nó; tập thể người làm công ăn lương, 
Viện kiểm sát, Ngân hàng Trung ương Liên bang 
Nga10; tại Hoa Kỳ: Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi tín 
dụng (Federal Deposit Insurance Corporation -FDIC) 
và Ủy ban Thanh tra tài chính cũng có quyền yêu cầu 
tuyên bố phá sản các ngân hàng11. 
Cho đến thời điểm hiện nay ở Việt Nam, theo qui 
định tại NĐ 189/NĐ-CP thì TCTD là những doanh 
nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng cho nên khi nó 
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán thì tự bản 
thân nó phải báo cho cơ quan chủ quản, tiến hành các 
biện pháp phục hồi, sau khi có sự đồng ý của Chính 
phủ thì Toà án mới có quyền mở thủ tục tuyên bố phá 
sản. 
Qui trình, thủ tục trên hoàn toàn không còn phù hợp 
trong bối cảnh hiện nay, bởi các lý do sau: 
Thứ nhất: Khác với thời điểm ban hành Luật phá sản 
doanh nghiệp, hiện nay xuất hiện các TCTD cổ phần, 
liên doanh, TCTD phi ngân hàng 100% vốn nước 
ngoài... chúng hoàn toàn không còn là những “doanh 
nghiệp cung ứng dịch vụ công cộng” nữa. 
Thứ hai: Tinh thần cơ bản của việc tuyên bố phá sản 
là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của chủ nợ, vì vậy pháp 
luật không nên tước đi quyền của chủ nợ được yêu 
cầu Tòa án tuyên bố phá sản đối với TCTD là con nợ. 
Mặt khác, có thể dễ dàng nhận thấy, Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam là cơ quan quản lý hoạt động của các 
TCTD. NHNNVN ban hành các tiêu chuẩn an toàn 
tài chính và chế độ tài chính cho các TCTD, đồng 
thời thực hiện việc giám sát tất cả mọi diễn biến tình 
hình tài chính của TCTD chịu trách nhiệm về việc 
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tiến hành các 
biện pháp phục hồi khi TCTD lâm vào tình trạng mất 
khả năng thanh toán, vì vậy, NHNNVN phải là một 
trong những chủ thể có nghĩa vụ yêu cầu Tòa án 
tuyên bố phá sản TCTD. 
Từ những lý do trên, thiết nghĩ, khi soạn thảo các văn 
bản pháp luật về phá sản TCTD nên tính đến những 
chủ thể có quyền (nghĩa vụ) yêu cầu Toà án mở thủ 
tục tuyên bố phá sản TCTD, như sau: 
1- Tự bản thân TCTD mắc nợ; 
2- Chủ nợ của TCTD (kể cả các cá nhân có quyền 
yêu cầu trả nợ theo hợp đồng tài khoản tiền gửi và 
(hoặc) hợp đồng tài khoản thanh toán...). Các chủ nợ 
của TCTD chỉ có thể nộp đơn đến Tòa án yêu cầu 
tuyên bố phá sản sau khi thỏa mãn các điều kiện sau: 
a) đã có yêu cầu bằng văn bản cho NHNNVN để áp 
dụng các biện pháp phục hồi hoặc thu hồi giấy phép 
hoạt động ngân hàng của TCTD mắc nợ và b) khoản 
nợ phải lớn hơn một mức nhất định nào đó chứ không 
phải tất cả các chủ nợ lớn nhỏ đều có quyền này (Ví 
dụ Luật CHLB Nga qui định khoản nợ phải lớn hơn 
1000 lần mức lương tối thiểu); 
3- NHNNVN (sau khi đã áp dụng các biện pháp phục 
hồi năng lực thanh toán theo trình tự kiểm soát đặc 
biệt mà không mang lại hiệu quả); 
4- Người lao động; 
5- Viện Kiểm sát nhân dân (khi phát hiện các dấu 
hiệu phá sản hoặc đại diện cho các chủ nợ là Chính 
phủ, UBND hoặc các nghĩa vụ tài chính công mà con 
nợ phải trả); 
6- Cơ quan thuế, các cơ quan tài chính, Bảo hiểm tiền 
gửi Việt Nam, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế. 
5/ Các biện pháp nhằm phục hồi năng lực thanh toán 
của các TCTD 
Nếu như pháp luật về phá sản trên thế giới trong 
những thập niên 60, 70 trở về trước chú trọng đến chế 
tài đối với bên bị phá sản, phá sản đồng nghĩa với sự 
khánh kiệt và bị trừng phạt. Ngày nay, nhận thức về 
phá sản được biến chuyển theo hướng nhân đạo hơn, 
một trong những nhiệm vụ của pháp luật phá sản là 
thiết lập cơ chế pháp lý để phục hồi, cứu cánh cho 
doanh nghiệp, chỉ tuyên bố phá sản khi không có khả 
năng phục hồi hoặc khi các biện pháp phục hồi thất 
bại. Xây dựng pháp luật phá sản các TCTD Việt Nam 
cũng không nằm ngoài mục đích và nguyên tắc trên. 
Mặc khác, xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như 
đặc tính dễ tổn thương của các TCTD trong hệ thống 
tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Một ngân hàng bị 
phá sản, hậu quả không chỉ đối với bản thân ngân 
hàng hoặc các chủ nợ của ngân hàng đó mà là sự 
hoảng loạn bất an theo phản ứng dây chuyền của toàn 
bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Vì vậy, xu 
hướng chung hiện nay trong lĩnh vực pháp luật về 
phá sản các ngân hàng là xây dựng một cơ chế pháp 
lý nhằm phục hồi năng lực thanh toán của các TCTD 
tạm thời mất khả năng thanh toán sau đó nếu không 
thành công mới là thủ tục tuyên bố phá sản và thanh 
toán tư pháp tài sản của TCTD. 
Theo qui định pháp luật Việt Nam hiện nay, cơ chế 
pháp lý nhằm phục hồi khả năng thanh toán của một 
TCTD bao gồm: 
- Phục hồi khả năng thanh toán trước thời điểm yêu 
cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản (hay gọi là kiểm soát 
đặc biệt), do NHNNVN thực hiện và được qui định 
trong Luật các TCTD ngày 12/12/1997. 
- Phục hồi TCTD sau khi quyết định mở thủ tục giải 
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản do Hội nghị chủ nợ 
thực hiện và chịu sự điều chỉnh bởi Luật phá sản 
doanh nghiệp như bất kỳ doanh nghiệp nào (Hiện 
nay, hầu như không quốc gia nào áp dụng giai đoạn 
này cho TCTD). 
a) Phục hồi TCTD trước thời điểm yêu cầu tuyên bố 
phá sản TCTD (Kiểm soát đặc biệt): 
Theo Đ92 Luật các TCTD Việt Nam ngày 
12/12/1997 kiểm soát đặc biệt có thể