1. Lý do chọn đề tài
Biển , mỗi lần ra biển nó lại thấy nhẹ nhàng . biển bao là, nó thì nhỏ
bé, dương như những nỗi buồn của nó đã được gió biển thổi đi , đi xa
mãi, nó ko mấy khi tắm biển, nhưng nó thích ngắm biển, sau những
lần đó nó cảm thấy thật nhẹ lòng, lại có thể có sức để thực hiện tiếp
những dự định .
2. Ý NGHĨA – GIÁ TRỊ CỦA ðỀ TÀI
2.1. Ý nghĩa
Thực tế đã chứng minh, Trang Trí Nội Thất cũng là một ngành nghệ
thuật chuyên biệt, nó có ý nghĩa quan trọng không chỉlà công năng,
mà còn là bản chất thẩm mỹ của chúng, tác động vào tư tưởng, tình
cảm của con người, thoã mãn nhu cầu cái đẹp của con người. ðể đáp
ứng những yêu cầu này, các ngành kiến trúc mỹ thuật chuyên sâu vào
nghiên cứu thiết kế nhiều kiểu công trình độc đáo và trang trí nội thất
thẩm mỹ đa dạng. Song, chúng ta đã biết Trang trí nội thất là một việc
không đơn giản, lắm công phu, nó đòi hỏi nhà thiết kế nhiều khía cạnh
sâu sắc, phải hiểu biết về tâm lý cũng như trình độ thẩm mỹ cần thiết
để phục vụ cho công việc thiết kế của mình.
2.2. Giá trị của đề tài:
Công trình được thiết kế nhằm phục vụ cho tất cả các đối tượng, đặc
biệt là những người thích sự sáng tạo, phá cách và có phong cách sống
mới,họ cũng cần có nhu cầu nghĩ ngơi, sau 1 ngày làm việc học tập
mệt mõi,mõi người trở về tổ ấm của mình,tìm lại sự bình yên và thoai
mái
3. GIỚI HẠN ðỀ TÀI
ðồ án tập trung nghiên cứu về biển,sinh vật biển và cảm xúc của
con người về biển.Qua đó vận dụng để thiết kế nội thất cho một nhà
biệt thự trong khu đô thị mới có đầy đủ các không giansống cơ bản
như vườn, phòng khách, phòng ngủ, bếp, nhà vệ sinh, phòng sinh
hoạch.
92 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4023 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Biệt thự hoa Biển - Trang trí nội thất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI CẢM ƠN
ðồ án tốt nghiệp này là kết quả cố gắng của em dưới sự chỉ
dạy và truyền đạt kiến thức của Quý thầy cô trong suốt hơn bốn
năm em gắn bó với trường ðại Học Dân Lập Hồng Bàng.
ðể thực hiện hoàn tất luận văn và đồ án tốt nghiệp này trước
tiên em xin kính gởi lời cám ơn sâu sắc nhất đến thầy ðào
Thanh Hà, thầy đã tận tình truyền đạt những kiến thức, những
kinh nghiệm, hướng dẫn tận tình cho em để hoàn thành tốt bài
đồ án tốt nghiệp này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường
đại Học Quốc Tế Hồng Bàng cùng quý thầy cô khoa Mỹ Thuật
Công Nghiệp, trường ðại Học Quốc tế Hồng Bàng đã tận tình
truyền đạt kiến thức và những kinh nghiệm quý báu, giúp em có
một nền tảng thật sự cần thiết để em chuẩn bị bước ra ngoài xã
hội, mở cánh cửa tương lai của chính mình và là người có ích
cho xã hội, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp
hơn.
2
3
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
4
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
5
MỤC LỤC
PHẦN 1: SƠ LƯỢC VỀ ðỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
2. Ý nghĩa và giá trị của đề tài
3. Giới hạn của đề tài
PHẦN 2: NỘI DUNG CỦA ðỀ TÀI
1. Nghiên cứu
1.1. Biển và cư dân của biển
1.1.1. Sinh vật biển phát sang
1.1.2. San hô
1.1.3. Sứa biển
1.2. Chủ nhân của biển
1.3. Quan niệm của con người về biển
1.4. Con nguời và nhu cầu tâm sinh lý
1.5. Cảm xúc và nhu cầu của con người
1.6. Cảm xúc bình yên của con người trong không gian nội thất
1.7. Tìm hiểu về vùng đât Hà Tiên
1.8. Biệt thự ven biển
2. Ứng dụng
Công trình biệt thự hoa biển
3. Kết luận
6
PHẦN 1: SƠ LƯỢC VỀ ðỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Biển , mỗi lần ra biển nó lại thấy nhẹ nhàng ... biển bao là, nó thì nhỏ
bé, dương như những nỗi buồn của nó đã được gió biển thổi đi , đi xa
mãi, nó ko mấy khi tắm biển, nhưng nó thích ngắm biển, sau những
lần đó nó cảm thấy thật nhẹ lòng, lại có thể có sức để thực hiện tiếp
những dự định ...
2. Ý NGHĨA – GIÁ TRỊ CỦA ðỀ TÀI
2.1. Ý nghĩa
Thực tế đã chứng minh, Trang Trí Nội Thất cũng là một ngành nghệ
thuật chuyên biệt, nó có ý nghĩa quan trọng không chỉ là công năng,
mà còn là bản chất thẩm mỹ của chúng, tác động vào tư tưởng, tình
cảm của con người, thoã mãn nhu cầu cái đẹp của con người. ðể đáp
ứng những yêu cầu này, các ngành kiến trúc mỹ thuật chuyên sâu vào
nghiên cứu thiết kế nhiều kiểu công trình độc đáo và trang trí nội thất
thẩm mỹ đa dạng. Song, chúng ta đã biết Trang trí nội thất là một việc
không đơn giản, lắm công phu, nó đòi hỏi nhà thiết kế nhiều khía cạnh
sâu sắc, phải hiểu biết về tâm lý cũng như trình độ thẩm mỹ cần thiết
để phục vụ cho công việc thiết kế của mình.
2.2. Giá trị của đề tài:
Công trình được thiết kế nhằm phục vụ cho tất cả các đối tượng, đặc
biệt là những người thích sự sáng tạo, phá cách và có phong cách sống
mới,họ cũng cần có nhu cầu nghĩ ngơi, sau 1 ngày làm việc học tập
mệt mõi,mõi người trở về tổ ấm của mình,tìm lại sự bình yên và thoai
mái
3. GIỚI HẠN ðỀ TÀI
ðồ án tập trung nghiên cứu về biển,sinh vật biển và cảm xúc của
con người về biển.Qua đó vận dụng để thiết kế nội thất cho một nhà
biệt thự trong khu đô thị mới có đầy đủ các không gian sống cơ bản
như vườn, phòng khách, phòng ngủ, bếp, nhà vệ sinh, phòng sinh
hoạch..
7
PHẦN 2: NỘI DUNG CỦA ðỀ TÀI
1.1. Biển và cư dân của biển
Vùng biển sâu tối tăm là ngôi nhà của những sinh vật kỳ lạ chưa tùng
biết đến.các nhà khoa học vừa cho biết những vùng đại dương sâu
thẳm, quanh năm tối đen, là nơi sinh sống của hàng loạt loài động vật
rất khác lạ so với những gì người ta nghĩ trước đây, từ sứa phát sáng
đến giun ống sống nhờ vào dầu rỉ ra từ đáy đại dương.
8
ðến nay, tổng cộng đã định danh được 17.650 loài động vật, bao gồm
các loài tôm, san hô, sao biển, cua, sống ở vùng biển sâu khoảng
5000m, nơi quanh năm lạnh giá và không có ánh sang
Robert Carney thuộc Trường đại học Bang Louisiana, người đồng chỉ
đạo một nghiên cứu về biển sâu - một phần của dự án lớn về ðiều tra
sinh vật biển quốc tế (COML), cho biết: “Mức độ đa dạng sinh học ở
đáy biển sâu cao hơn rất nhiều so với chúng ta nghĩ”.
9
“Các vực sâu không còn là lỗ đen nữa”, ông đã phát biểu với Reuters
sau các chuyến khảo sát biển sâu có sử dụng máy chụp hình kéo ở
tầng sâu, kỹ thuật sóng âm, và các kỹ thuật khác.
Ánh sáng chỉ xuyên vào nước biển đến độ sâu khoảng 200m, có thể so
sánh với độ cao của tòa tháp Tượng ðài Washington 169m, và vùng
bên dưới độ sâu này từ lâu được xem là hoang mạc có áp suất khủng
khiếp.
Bên dưới vùng chiếu sáng, nơi thực vật không thể sống, các động vật
sống được nhờ vào nguồn năng lượng từ ăn vi khuẩn, hoặc phân hủy
metan hoặc dầu, hoặc ăn thức ăn từ trên lắng xuống như xác cá voi.
Trong các động vật này có sứa phát sáng và động vật mềm như bạch
tuộc có vây, hay còn gọi là những con “Dumbo”, vì chúng đập hai vây
có hình tai và trông như con voi bay trong phim hoạt hình.
“Dumbo, dài khoảng 2m, là một trong số các động vật lớn của vực
biển sâu, gồm một số loài cá mập, hoặc thủy mẫu ống”, Mike
Vecchione thuộc Viện Smithsonian cho biết.
“Thủy mẫu ống đã được công bố dài hơn cá voi xanh”, ông đã phát
biểu với Reuters. ðiều tra sinh vật biển là một dự án 10 năm và sẽ kết
thúc vào tháng 10/2010.
Từ mũi khoan dầu
Ở một vùng biển thuộc Vịnh Mexico, các chuyên gia đã phát hiện một
loài giun ống (tubeworm) sống trên nền đáy biển ở độ sâu 990m. Khi
cánh tay robot gắp nó lên từ một lỗ trên nền đáy biển, dầu đã phọt ra
từ đó, con giun này đang tiêu hóa các hóa chất từ việc phân hủy dầu.
10
Carney cho biết các công ty dầu mỏ hầu như chỉ tập trung khảo sát địa
chất để tìm các vết dầu nhưng loài giun này cũng có thể là một chỉ thị.
Chúng ta có thể có một nguồn metan hoặc dầu mỏ gần đâu đây nếu
phát hiện thấy có những giun ống này.
Carney cho biết thêm, nhiều nhà khoa học đã “phiền lòng vì quan điểm
rằng biển sâu không cần phải quan tâm”, và ngày nay xu thế khai thác
tài nguyên đang cần các kiến thức về biển sâu và các sinh vật sống ở
đó.
Hiện nay hiểu biết về các động vật sống ở biển sâu còn quá ít ỏi. Chỉ
có 7 trong số 680 mẫu các loài giáp xác nhỏ mới thuộc Giáp xác chân
chèo thu ở vùng biển phía đông nam ðại Tây Dương có khả năng định
danh được. Một chuyến khảo sát khác lần đầu tiên đã phát hiện một
loài giun Osedax ăn xương cá voi ở vùng biển Nam Cực.
Mặc dù ở dưới các lớp nước sâu đen tối, nhiều động vật vẫn tự tạo ra
ánh sáng - những tín hiệu phát quang giúp phát hiện hoặc thu hút con
mồi hay bạn tình, hoặc có mắt nhìn thấy trong bóng tối.
Một vài động vật sống ở vùng chiếu sáng cũng bơi xuống các vực sâu;
một con hải cẩu voi miền nam đã được ghi nhận ở độ sâu 2.388m.
Màu sắc phát quang rực rỡ của các sinh vật biển
Ở điều kiện ánh sáng bình thường, con người sẽ không thể quan sát
bằng mắt thường màu sắc phát quang của một số sinh vật dưới đại
dương. Tuy nhiên, với những bước sóng ánh sáng đặc biệt như ánh
sáng cực tím hay ánh sáng xanh, chúng ta sẽ thấy được những màu
sắc phát quang kỳ ảo của các sinh vật dưới lòng biển...
11
Rạn san hô mới nhú, ở vùng Biển ðỏ (Ai Cập), đang phát quang dưới
ánh sáng cực tím UV.
Khi được chiếu sáng bằng những những ánh sáng đặc biệt, nhiều loại
sinh vật dưới đại dương hiện ra với những màu sắc rực rỡ.
12
Màu phát quang các sinh vật dưới biển được tạo ra do các tế bào của
chúng phản chiếu lại một số bước sóng ánh sáng nhất định và mỗi
bước sóng sẽ tạo ra một màu sắc khác nhau.
Rạn san hô và một con cua biển đang phát quang dưới ánh sáng xanh
ở vùng biển Thái Lan.
13
Biển báo giao thông và bút đánh dấu là hai ví dụ về phát quang mà
con người có thể quan sát bằng mắt thường. Ngoài ra, chúng ta
thường quan sát những đối tượng phát quang bằng cách sử dụng ánh
sáng cực tím...
14
. ... Nhưng ở dưới đáy các đại dương, ánh sáng xanh sẽ giúp chúng ta
quan sát rõ hơn các sinh vật ở đây.
15
Hình ảnh một con cá phát quang rực rỡ dưới ánh sáng xanh.
Rạn san hô Lobophyllia đang phát quang.
16
Tiến sĩ Michiels, thuộc Trường ðại học Tubingen ở ðức, là người đi tiên
phong trong việc nghiên cứu các sinh vật phát quang dưới các đại
dương...
. ..."Bạn không thể quan sát những màu sắc phát quang bằng mắt
thường. Những đèn chiếu sáng đặc biệt giúp chúng ta quan sát rõ hơn
những màu sắc phát quang của sinh vật biển”, Tiến sĩ Michiels nói.
17
Rạn san hô phát quang trông như một vườn hoa tuyệt đẹp.
Hiện tại, có rất nhiều giả thuyết về sự phát quang của các sinh vật
biển. Một số sinh vật phát quang ra những màu sắc giống với những
vật xung quanh để ngụy trang...
18
. ... Trong khi một số loài khác phát quang để thu hút các sinh vật
khác, ví dụ như cá Goby và san hô.
Rất nhiều các công ty trên thế giới đã cung cấp các dịch vụ lặn ban
đêm với những chiếc đèn LED có ánh sáng đặc biệt để quan sát những
sinh vật phát quang dưới đại dương.
19
Hiện tại, có rất nhiều giả thuyết về sự phát quang của các sinh vật
biển. Một số sinh vật phát quang ra những màu sắc giống với những
vật xung quanh để ngụy trang...
... Trong khi một số loài khác phát quang để thu hút các sinh vật khác,
ví dụ như cá Goby và san hô.
Khả năng phát sáng của sinh vật biển đã được con người phát hiện,
nghiên cứu cách đây gần 80 năm, và đã được triển khai ứng dụng rộng
rãi trong nhiều lĩnh vực. Kết quả nghiên cứu sinh vật biển phát sáng ở
vịnh Nha Trang do Viện Hải dương học Nha Trang thực hiện trong 2
năm (2004-2005), bước đầu đã phát hiện được 18 loài, cho thấy tiềm
năng to lớn của nguồn lợi này ở nước ta.
Sự tình cờ có giá trị
Năm 1927, trong lúc dạo bộ trên bờ biển ở vịnh Torbay (Anh), ông
Phillips tình cờ đã phát hiện những con hải quỳ trong các vũng nước
triều đọng lại phát ra ánh sáng xanh khi được rọi đèn pin đã được lọc
bỏ các ánh sáng nhìn thấy (chỉ truyền ánh sáng cực tím - UV). Ông bắt
đầu nghiên cứu và đã trở thành học giả đầu tiên công bố các kết quả
về hiện tượng lý thú này... ðến những năm 30 của thế kỷ XX, ông
Kawaguit, người Nhật đã chú ý đến các sắc tố phát sáng của san hô
khi bị kích hoạt bởi ánh sáng UV. Những năm 40, vợ chồng ông Catala
đã nuôi thí nghiệm một số loài sinh vật biển có khả năng phát sáng khi
bị chiếu ánh sáng UV trong phòng tối. Các kết quả thu được hết sức
khả quan. Sự phát sáng của sinh vật biển trong phòng tối do bị kích
thích bởi ánh sánh UV đã tạo ra thế giới màu sắc huyền ảo, vô cùng
hấp dẫn. Ông bà Catala đã sáng lập ra Bảo tàng sinh vật biển Noumea
(New Calodenia Nam Thái Bình Dương). Bảo tàng này đã nổi danh thế
giới với hệ thống trưng bày “Sinh vật biển phát sáng”, huyền ảo và
hấp dẫn du khách.
Các loài sinh vật biển phát sáng và phát quang
Cho đến nay, đã phát hiện hơn 507 loài sinh vật biển có khả năng phát
sáng khi bị kích hoạt bởi các nguồn sáng. Trong đó, phần lớn là các
loài san hô, rồi đến loài chân bụng (có hơn 200 loài), chủ yếu là
Trochidae, Bullidae, Cypraeidae, Triviidae, Haliodae, Fissurellidae,
nhóm chân đầu như mực Tuộc, Nang, Ống..., nhóm động vật thể
xoang...
20
Khác với phát quang sinh học, là đặc tính tự nhiên của một số loài thủy
sinh có kích thước nhỏ (từ micromét đến vài centimét), có bản chất
liên quan đến các phản ứng sinh hóa lý của chúng, một số loài sinh vật
biển có khả năng đặc biệt là phản xạ, phát ra ánh sáng nhìn thấy
(bước sóng 450-600 nm) khi bị kích hoạt bởi các nguồn sáng không
nhìn thấy (có bước sóng nhỏ hơn 450 - nguồn UV hay lớn hơn 600 nm
- nguồn hồng ngoại) chiếu vào.
Bước đầu nghiên cứu, Viện Hải dương học Nha Trang đã phát hiện
được 18 loài sinh vật ở vịnh Nha Trang có khả năng phát sáng và Viện
cũng đã nuôi thử nghiệm thành công 4 loài san hô, phục vụ cho các
triển khai ứng dụng ở Việt Nam.
Hiện nay, khoa học hải dương đã xác định và lựa chọn khoảng 10 loài
thuộc nhóm san hô, thủy tức, hải quỳ... có khả năng phát sáng rất
mạnh, ổn định.
Cấu trúc protein - Bản chất của quá trình phát sáng
Vì sao một số loài sinh vật biển lại có khả năng phát sáng khi bị kích
hoạt bởi các nguồn sáng khác chiếu vào, đặc biệt là nguồn UV?
Theo các nhà khoa học, hiện tượng phát sáng của các loài thủy sinh
khi bị kích hoạt bởi các nguồn sáng UV này phụ thuộc vào cấu trúc của
các protein. Chính vì các protein của các vi sinh vật biển khác nhau,
đặc điểm thích ứng, chịu được tác động của các sóng ánh sáng khác
nhau đã tạo ra khả năng phát sáng của chúng. Có một số loài sinh vật
hay một số cấu trúc sinh học bị hủy hoại dưới tác dụng của ánh sáng
UV. Trái lại, có những loài hay bộ phận sinh học khác lại bền vững,
không bị phá hủy dưới tác dụng của ánh sáng UV. Dựa vào các kết quả
nghiên cứu về sự thay đổi của cấu trúc các protein do tác động của các
nguồn sáng, các chuyên gia Nhật Bản đã giải thích vì sao phần lớn các
loài san hô ở vùng biển nông có khả năng phát sáng khi bị nguồn UV
chiếu vào. San hô đã có quá trình tiến hóa hàng ngàn hoặc triệu năm
trong các vùng biển nhiệt đới. ðể thích nghi, các sắc tố của san hô có
khả năng sàng lọc các loại ánh sáng mặt trời, hấp thụ ánh sáng UV độc
hại, chuyển hóa, phát ra các ánh sáng nhìn thấy được (bước sóng 450-
600 nm) ít độc hại hơn.
Ở nước biển, khi bị khuấy động do các chuyển động của tàu bè, sự vận
động bơi lội... vào ban đêm, chúng ta thấy xuất hiện các vệt sáng phát
ra. ðó chính là hiện tượng phát quang sinh học của một số loài đơn
bào thuộc Dinoflagellates. Phần lớn hiện tượng phát quang sinh học do
sự “cọ xát cơ học” thường xảy ra trên tầng mặt và tầng sát mặt -
21
trong khoảng trên dưới chục mét. Ngoài ra, khoa học hải dương cũng
đã phát hiện được một số loài sinh vật sống ở những tầng sâu hơn 200
- 1.000 m, thậm chí đến 4.000 m có khả năng phát quang. ðó là các
loài cá, giáp xác, có kích thước nhỏ, chỉ khoảng vài centimet. Phát
sáng sinh học là một trong những đặc trưng thích nghi của chúng
trong quá trình tiến hóa. Phát sáng có thể là công cụ kiếm mồi, là công
cụ chống trả kẻ thù, là phản ứng “tự vệ” do điều kiện môi trường thay
đổi mạnh… ðấy là những đặc trưng mang tính bản chất của các phản
ứng sinh hóa, đặc trưng của một số loài thủy sinh.
Hiện tượng phát sáng của một số loài sinh vật biển khác (sinh vật biển
phát sáng) như san hô, hải quỳ... chỉ xuất hiện khi bị kích hoạt bởi các
nguồn sáng, chủ yếu là ánh sáng UV. Nhóm này không có khả năng
phát sáng khi bị thay đổi các trạng thái sinh lý hay cọ xát cơ học.
Những ứng dụng của sinh vật biển phát sáng
Hiện tượng phát sáng của sinh vật biển khi bị kích hoạt bởi các nguồn
sáng không nhìn thấy, đang được nghiên cứu ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực như:
- Phân loại sinh học biển, đặc biệt là phân loại các loài san hô.
- Nghiên cứu lịch sử tiến hóa và quá trình biến đổi khí hậu toàn cầu
trong quá khứ, dự báo cho tương lai.
- Nghiên cứu phục vụ cho việc đánh giá, xác định chất lượng môi
trường nước, môi trường trầm tích, môi trường sinh học. ðặc biệt là
trong nghiên cứu để tạo ra các loài vi sinh chỉ thị độc chất môi trường.
- Nghiên cứu các cấu trúc phân tử sống, đặc trưng cho thế giới sinh
vật, phục vụ việc xác định nguyên nhân, diễn biến và ngăn ngừa, điều
trị các bệnh hiểm nghèo trong y học.
- Khai thác phục vụ kinh doanh, giải trí trong các hệ thống bảo tàng
sinh học và hải dương học.
Người ta đã sử dụng công nghệ biến đổi gen để tạo ra nhiều sản phẩm
độc đáo như cá phát sáng (Trân Châu đêm), vi sinh vật biến đổi cường
độ chiếu sáng khi tiếp xúc với các vi sinh vật gây hại hoặc hóa chất
độc gây ung thư… ðó là những “đầu dò” thuộc thế hệ mới trong các
thiệt bị cảnh báo môi trường, cảnh báo bệnh tật…
Sinh vật biển phát sáng rất phong phú ở vùng biển Việt Nam. ðó là
22
nguồn lợi quý giá, cần nghiên cứu một cách toàn diện, đồng bộ để khai
thác, sử dụng và bảo vệ nguồn lợi đặc biệt này.
1.1.2 San hô
San hô nhiều màu sắc, phát sáng màu xanh lục hay có hình giống
bông hoa trên trang National Geographic.
Ảnh chụp cận cảnh san hô hình bông hoa ở Philippines.
23
Những lớp san hô bao quanh đảo Palau trên Thái Bình
Dương.
Thoạt nhìn chúng ta có thể tưởng những thứ trong ảnh
là hoa, song thực ra chúng là xúc tu của một loài san
hô màu cam gần quần đảo Caroline ở phía đông Thái
Bình Dương.
Những con cá hàng chài ẩn nấp trong dải san hô thuộc
24
đảo Flores, Indonesia.
Rạn san hô gần quần đảo Cayman trên vùng biển
Caribbe là một trong những quần thể san hô có mức độ
đa dạng sinh học cao nhất thế giới.
Một đàn cá anthia bơi qua rạn san hô mềm rực rỡ
thuộc quốc đảo Fiji ở phía tây nam Thái Bình Dương.
Khác với san hô cứng, san hô mềm không tiết ra
carbonat canxi để tạo bộ xương cứng. Ngoài ra chúng
còn không thể tái sinh những phần đã mất.
25
Những vùng nước ấm ở bờ biển phía đông Australia
giúp san hô gần đảo Heron phát triển mạnh mẽ. Quần
thể này thuộc rạn san hô khổng lồ Great Barrier – nơi
có ít nhất 2.800 rạn san hô nhỏ trải dài hơn 2.000 km.
San hô phát sáng huỳnh quang màu xanh lục thuộc
đảo Palau trên Thái Bình Dương. ðiều thú vị là bước
sóng ánh sáng mà loài san hô này phát ra hoàn toàn
khác so với bước sóng ánh sáng mà chúng hấp thụ.
26
Những nhánh san hô mềm màu cam, đỏ, vàng, trắng
vươn ra từ một dải san hô ở Papua New Guinea. Chúng
làm như vậy để bắt những sinh vật trôi nổi trong nước
biển.
Giống như những vũ công dàn thành đội hình, nhóm
san hô này phát ra ánh sáng màu xanh lục ở phía tây
Thái Bình Dương.
27
Một thợ lặn khám phá khu bảo tồn hải dương Wet
Jacket Arm của New Zealand. Những con cá trong ảnh
đang bơi ở phía trên một khu rừng dưới đáy biển được
tạo nên bởi san hô màu đen. Các khu rừng như thế có
thể tồn tại tới 300 năm.
1.1.3 sứa biển
Một con sứa biển đang nổi giận trong bể nuôi cá tại California. Bên
trong cơ thể tưởng chừng đơn giản của nó là một tập hợp gene vô
cùng phức tạp.
Chu kỳ sống của sứa biển
28
Từ lâu nay, người ta vẫn xem sứa biển là một loài động vật đơn giản
và nguyên thuỷ. Nếu nhìn vào bể nuôi cá, chúng ta cũng sẽ dễ dàng
tin vào điều này. Tương tự như những loại cùng họ như cỏ chân ngỗng
và san hô, sứa biển thoạt nhìn ai cũng tưởng nó là một động vật hoàn
toàn đơn giản. Nó không có đầu đuôi, không có lưng bụng, không có
trái phải, thậm chí không có chân hoặc vây. Nó cũng không có tim.
Ruột của nó giống như một chiếc túi hơn là một đường ống, do đó
miệng của nó cũng sẽ đóng vai trò hậu môn. Thay vì bộ não, nó chỉ có
một mạng lưới thần kinh khuếch tán.
Một con cá hoặc một con tôm có thể di chuyển nhanh theo hướng xác
định, nhưng con sứa biển chỉ có thể bơi lờ đờ mà thôi.
Nhưng những kết quả nghiên cứu gần đây nhất đã khiến cho các nhà
khoa học phải thừa nhận họ đã đánh giá thấp con sứa biển và họ hàng
của nó, được biết đến với tên gọi là tập hợp cnidarian (phát âm là nih-
DEHR-ee-uns). Bên trong cơ thể có vẻ đơn giản của chúng là một
tập hợp gene rất phức tạp và đáng chú ý, bao gồm nhiều điều
có ích cho việc phát triển khoa giải phẫu học con người.
Những khám phá này đã đem đến một lý thuyết hoàn toàn mới mẻ về
quá trình tiến hoá của động vật từ 600 triệu năm trước. Kết quả tìm
kiếm cũng đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học dành cho loài
cnidarian như một mô hình để tìm hiểu cơ thể con ngời.
Bác sĩ Kevin J. Peterson, một nhà sinh vật học tại Dartmouth nhận
xét: "ðiều ngạc nhiên lớn nhất chính là việc loài cnidarian lại có nhiều
gene phức tạp hơn ta tưởng. ðiều này đã làm cho rất nhiều người phải
quay lại và nhận ra rất nhiều điều họ vẫn nghĩ về loài cnidarian là
hoàn toàn sai lầm"
Các nhà khoa học đã xem xét lại quá trình phát triển của chúng.
Những nhà tự nhiên học từ thế kỷ 18 đã miễn cưỡng xếp chúng vào
thế giới động vật, và chỉ thế thôi. Họ xếp nhóm cnidarians thuộc ngành
"ðộng vật hình cây", đâu đó giữa động vật và thực vật.
Chỉ đến thế kỉ 19, các nhà tự nhiên học mới bắt đầu hiểu được cơ chế
sinh trưởng của chúng từ trứn