Ngày nay, sữa lên men chua là một trong những sản phẩm đang được ưa 
chuộng và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Ngoài việc cung cấp 
nguồn dinh dưỡng thiết yếu, nó còn được biết đến với tính chất kháng một sốbệnh: 
ung thư, chống lão hóa và tăng cường tiêu hóa. Mang đầy đủtính chất trên và đang 
có tiềm năng phát triển cao trên thếgiới - Sữa Kefir (một sản phẩm sữa chua mới) 
cần được quan tâm nghiên cứu và phát triển. Kefir là sản phẩm vừa lên men lactic 
nhờnhóm vi khuẩn lactic ưa ấm, vừa lên men rượu nhờnấm men. Sản phẩm này 
thường được lên men từsữa của các loài động vật có vú như: bò, ngựa, dê, tuy đã có 
mặt từrất lâu đời trên thếgiới nhưng vẫn còn rất mới trên thịtrường Việt Nam. Do 
đó, đểgóp phần giúp cho sản phẩm Kefir ngày càng phổbiến và quen thuộc với 
người tiêu dùng, chúng tôi nghĩcần phải nghiên cứu sửdụng các loại nguyên liệu 
khác đểlên men kefir tạo sự đa dạng cho sản phẩm. 
Ởcác nước châu Á, sữa đậu nành là thức uống phổbiến phù hợp cho mọi lứa 
tuổi. Thành phần amino acid trong protein của đậu nành ngoài methionine và 
tryptophan còn có các amino acid khác với sốlượng khá cao tương đương lượng 
amino acid có trong thịt. Ngoài ra sữa đậu nành còn chứa rất nhiều vitamin, muối 
khoáng cần thiết cho cơthể
Những loại thực phẩm được chếbiến từ đậu nành đã có từhơn hai ngàn năm 
trước như: đậu hũ, chao, tương. Hiện nay, các nhà sản xuất thực phẩm đang quan tâm 
đầu tưnghiên cứu nhằm làm đa dạng các sản phẩm chếbiến từ đậu nành để đáp ứng 
khẩu vịcủa người tiêu dùng. 
Ca cao là cây trồng đang phát triển ởViệt Nam, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, 
đang được đánh giá là cây trồng chủlực, đem lại hiệu quảkinh tếcao. Chất lượng 
hạt cacao Việt Nam đã được đánh giá cao so với cacao của nhiều quốc gia khác trên 
thếgiới. Nhưng hiện nay ởViệt Nam chỉcó một sốít doanh nghiệp đầu tư, sản xuất 
các sản phẩm chếbiến từcacao.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 57 trang
57 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3775 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Công nghệ sản xuất sữa đậu nành kefir hương ca cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 1 
CHƯƠNG 1 
MỞ ĐẦU 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 2 
1.1. Đặt vấn đề 
Ngày nay, sữa lên men chua là một trong những sản phẩm đang được ưa 
chuộng và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Ngoài việc cung cấp 
nguồn dinh dưỡng thiết yếu, nó còn được biết đến với tính chất kháng một số bệnh: 
ung thư, chống lão hóa và tăng cường tiêu hóa. Mang đầy đủ tính chất trên và đang 
có tiềm năng phát triển cao trên thế giới - Sữa Kefir (một sản phẩm sữa chua mới) 
cần được quan tâm nghiên cứu và phát triển. Kefir là sản phẩm vừa lên men lactic 
nhờ nhóm vi khuẩn lactic ưa ấm, vừa lên men rượu nhờ nấm men. Sản phẩm này 
thường được lên men từ sữa của các loài động vật có vú như: bò, ngựa, dê, tuy đã có 
mặt từ rất lâu đời trên thế giới nhưng vẫn còn rất mới trên thị trường Việt Nam. Do 
đó, để góp phần giúp cho sản phẩm Kefir ngày càng phổ biến và quen thuộc với 
người tiêu dùng, chúng tôi nghĩ cần phải nghiên cứu sử dụng các loại nguyên liệu 
khác để lên men kefir tạo sự đa dạng cho sản phẩm. 
Ở các nước châu Á, sữa đậu nành là thức uống phổ biến phù hợp cho mọi lứa 
tuổi. Thành phần amino acid trong protein của đậu nành ngoài methionine và 
tryptophan còn có các amino acid khác với số lượng khá cao tương đương lượng 
amino acid có trong thịt. Ngoài ra sữa đậu nành còn chứa rất nhiều vitamin, muối 
khoáng cần thiết cho cơ thể 
Những loại thực phẩm được chế biến từ đậu nành đã có từ hơn hai ngàn năm 
trước như: đậu hũ, chao, tương. Hiện nay, các nhà sản xuất thực phẩm đang quan tâm 
đầu tư nghiên cứu nhằm làm đa dạng các sản phẩm chế biến từ đậu nành để đáp ứng 
khẩu vị của người tiêu dùng. 
Ca cao là cây trồng đang phát triển ở Việt Nam, đặc biệt là vùng Tây Nguyên, 
đang được đánh giá là cây trồng chủ lực, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chất lượng 
hạt cacao Việt Nam đã được đánh giá cao so với cacao của nhiều quốc gia khác trên 
thế giới. Nhưng hiện nay ở Việt Nam chỉ có một số ít doanh nghiệp đầu tư, sản xuất 
các sản phẩm chế biến từ cacao. 
Vì vậy chúng tôi thiết nghĩ, sự kết hợp giữa hai loại nguyên liệu đậu nành và 
cacao để lên men Kefir sẽ tạo ra được một sản phẩm có hương vị mới lạ và hấp dẫn. 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 3 
Với ý tưởng trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Công nghệ sản xuất sữa đậu nành 
kefir hương cacao” 
1.2. Mục tiêu đề tài 
Sữa đậu nành Kefir sẽ được nghiên cứu chế biến ở phòng thí nghiệm với trọng 
tâm là giải quyết các vấn đề về chất lượng sản phẩm. Trên cơ sở đó đề tài nghiên cứu 
các vấn đề sau: 
- Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ men giống đến quá trình lên men và chất lượng 
sản phẩm 
- Khảo sát ảnh hưởng của độ acid dừng đến chất lượng sản phẩm 
- Khảo sát tỉ lệ phối chế thích hợp cho thành phẩm 
1.3. Nội dung công việc 
Để hoàn thành mục đích đề tài, chúng tôi thực hiện các công việc sau: 
- Tham khảo tài liệu, tìm hiểu những lĩnh vực có liên quan 
- Xây dựng kế hoạch thí nghiệm 
- Tiến hành thực hiện thí nghiệm 
- Xử lý và rút ra nhận xét từ số liệu thu được 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 4 
CHƯƠNG 2 
TỔNG QUAN 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 5 
2.1. CÂY ĐẬU NÀNH 
2.1.1. Giới thiệu 
2.1.1.1. Khái quát 
• Tên khoa học: Glycine max (L.) Merrill 
• Tên tiếng Anh: soybean, soya bean 
• Tên tiếng Việt: đậu nành (miền Nam), đậu tương (miền Bắc), hoàng đậu 
miêu… 
• Cây đậu nành thuộc: 
Lớp: Magnoliopsida 
Bộ: Fabales 
Họ: Fabaceae 
Họ phụ: Faboideae 
Chi: Glycine 
Hơn năm ngàn năm về trước, đậu nành đã được trồng và sử dụng như là thực 
phẩm, thành phần của thuốc ở miền Đông Bắc Trung Quốc. Cây đậu nành được du 
nhập vào Triều Tiên và Nhật Bản vào khoảng từ năm 200 trước công nguyên đến 
năm 300 sau công nguyên. Sau đó, được du nhập đến các nước Indonesia, Philippin, 
Thái Lan, Malaysia. Tại Việt Nam, cây đậu nành được trồng vào thế kỷ thứ VI sau 
công nguyên. 
Vào năm 1765, sau một chuyến hải hành từ Trung Quốc, thủy thủ Samuel 
Bowen (người Mỹ) đã mang hạt giống đậu nành về Mỹ. Sau đó cây tiếp tục được 
trồng phổ biến sang các nước Trung và Nam Mỹ [4] 
Đậu nành cung cấp nguồn protein (chất đạm) nhiều hơn bất cứ một loại nông 
sản nào và tương đương với các sản phẩm từ thịt động vật, cho nên nó được ưa 
chuộng và sử dụng trong khẩu phần ăn ở nhiều nước châu Á. Ngày nay, đậu nành đã 
trở thành một trong những loại cây được trồng phổ biến trên thế giới . 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 6 
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái của cây đậu nành 
Rễ cây 
Bộ rễ của cây đậu nành gồm có một rễ cái và rất nhiều rễ con.Bộ rể của cây 
phát triển rất khỏe theo từng giai đoạn phát triển của cây, chỉ khi nào cây đã bước 
vào giai đoạn thu hoạch thì bộ rễ mới ngừng phát triển. 
Thân cây 
Cây đậu nành có thân thảo gần hóa mộc (bên trong có mô gỗ, có tế bào gỗ), 
sống hàng năm, thân nhỏ và yếu. Cây thường mọc thẳng, có giống mọc nghiêng hoặc 
bò ra đất. Ở đoạn gốc cây, chiều dài của lóng dài, càng lên ngọn lóng càng ngắn lại. 
Cây đậu nành gồm có 2 giống: giống sinh trưởng hữu hạn và giống sinh 
trưởng vô hạn 
• Giống sinh trưởng hữu hạn: chiều cao từ 30-40 cm, thân to khỏe, số lóng ít 
(5-6 lóng). Khi cây ra hoa thì cũng là lúc ngừng tăng trưởng về chiều cao. 
• Giống sinh trưởng vô hạn: chiều cao từ 1-1,5 m, thân nhỏ và yếu, cành 
cũng nhỏ, lóng nhiều (7-9 lóng). Khi cây ra hoa, thân vẫn tiếp tục tăng 
trưởng chiều cao. Giống này thường mọc theo thế hơi nghiêng hoặc mọc 
bò ra đất như loài thân leo. 
Lá cây 
Đậu nành có hai loại lá là: lá đơn và lá kép. Lá đơn có hình ovan sinh ra từ 
lóng thứ hai của thân cây. Hai lá đơn mọc đối xứng nhau, mỗi gốc lá đơn mọc chìa ra 
hai gốc lá nhỏ. Từ lóng thứ ba trở lên, mỗi lóng nảy ra một lá kép, dài từ 3-12 cm, 
rộng từ 2-8 cm. 
Cây có lá rộng thì phiến lá mỏng, sinh trưởng khỏe, ngược lại, cây có lá dài 
thì phiến lá dày và sinh trưởng yếu nhưng lại chịu hạn giỏi hơn cây có phiến lá rộng. 
Hoa 
Cụm hoa ở kẻ lá, hoa nhỏ có dạng cánh bướm, màu tím hoặc trắng, đài hình 
chuông, phủ lông mềm, tràng có cành cờ rộng, không có tai, nhị một bó, bầu có lông. 
Hoa có khả năng tự thụ phấn. 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 7 
Trái 
Sau khi hoa nở một tuần thì đậu trái. Sau ba tuần tiếp theo thì trái đạt kích 
thước tối đa. Bên ngoài trái có lớp lông mềm màu vàng bao phủ. Trái có dạng dẹp 
hay hơi tròn, dài 3-4 cm, hơi thắt lại giữa các hạt, chứa từ 2-5 hạt. 
Hạt đậu nành 
Hạt đậu nành có dạng hình cầu hoặc hình thận, có màu sắc thay đổi tùy theo 
giống trồng (màu vàng, nâu, đen, xanh). Trọng lượng một hạt đậu nành thay đổi từ 
20-400 mg/ hạt 
Hạt đậu nành gồm hai phần: vỏ hạt và phôi. Vỏ hạt dễ ngấm nước và bao bọc 
bên ngoài để bảo vệ phôi bên trong. Vỏ hạt có chứa sắc tố anthocyamine, tùy theo 
hàm lượng sắc tố này mà vỏ hạt có bốn màu khác nhau: vàng, nâu, đen, xanh. Vỏ chỉ 
chiếm khoảng 8% khối lượng hạt. Nhân phôi bên trong gồm hai tử diệp, chứa đạm và 
dầu nên chiếm 90% trọng lượng hạt. 
2.1.2. Thành phần hóa học của hạt đậu nành 
2.1.2.1. Protein 
Đậu nành là loại hạt có giá trị dinh dưỡng cao, rất giàu protein. Thành phần 
amino acid trong protein của đậu nành ngoài methionine và tryptophan còn có các 
amino acid khác với số lượng khá cao tương đương lượng amino acid có trong thịt. 
Vì vậy, đậu nành còn được gọi là “thịt thực vật”. Trong Bảng 2.1 và Bảng 2.2, 
protein của hạt đậu nành chiếm hàm lượng cao (40%) và chứa 8 loại amino acid 
không thay thế thiết yếu cho cơ thể con người (Tryptophan, Threonine, Isoleucine, 
Valine, Lysine, Methionine, Phenilalanine và Leucine) 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 8 
Bảng 2.1: Thành phần amino acid trong hạt đậu nành [5] 
Amino acid Hàm lượng (%) 
Isoleucin 1.1 
Leucine 7,7 
Lycine 5,9 
Methionine 1,6 
Cystine 1,3 
Phenilalanine 5,0 
Threonine 4,3 
Histidine 2,6 
Tryptophan 1,3 
Valine 5,4 
Bảng 2.2: Tỉ lệ các thành phần trong hạt đậu nành [5] 
Thành phần Hàm lượng ( % ) 
Ẩm độ 8,0 
Khoáng 4,6 
Chất béo 20,0 
Chất đạm 40,0 
Chất xơ 3,5 
Các hợp chất pentosan 4,4 
Chất đường 7,0 
Chất bột 5,4 
Các hợp chất khác 7,1 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 9 
So sánh hàm lượng protein trong một số nguyên liệu động vật và thực vật 
thường được sử dụng làm thực phẩm, thì protein trong đậu nành chiểm tỉ lệ rất cao 
(34-40%) 
Bảng 2.3: Hàm lượng protein trong một số nguyên liệu 
Nguyên liệu Hàm lượng (%) 
Trứng (gà, vịt, chim cút) 13-15 
Sữa bò 3-5 
Thịt cá 17-21 
Tôm 19-23 
Mực 17-20 
Lúa 7-8 
Bắp 8-10 
Mô cơ thịt gia súc 16-22 
Sò 8-9 
Ốc 13-16 
Đậu nành 34-40 
Hàm lượng protein của hạt đậu nành chủ yếu là ở tử diệp và phôi, chiếm 
83,1%; còn lại là ở vỏ hạt, chiếm 8,8%. Nhưng vỏ hạt lại chứa nhiều hydrocacbon 
hơn so với tử diệp và phôi (Bảng 2.4) 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 10 
Bảng 2.4: Thành phần hóa học của hạt đậu nành [7] 
Hợp phần 
của hạt 
Khối lượng hạt 
(%) 
Protein 
(%) 
Dầu 
(%) 
Tro 
(%) 
Hydrocacbon 
(%) 
Hạt nguyên 100 40 21 4,9 34 
Tử diệp 90,3 43 23 5 29 
Vỏ hạt 8 8,8 1,0 4,3 86 
Phôi 2,4 41,1 11,0 4,4 43 
2.1.2.2. Hydrocacbon 
Hydrocacbon chiếm khoảng 34% hạt đậu nành. Phần hydrocacbon có thể chia 
ra làm 2 loại, loại tan trong nước và loại không tan trong nước. Loại tan trong nước 
chỉ chiếm khoảng 10% toàn bộ hydrocacbon. 
Bảng 2.5: Thành phần hydrocacbon trong đậu nành [5] 
Thành phần Hàm lượng (%) 
Cellulose 4,0 
Hemicellulose 15,4 
Stachyoza 1,1 
Saxaroza 5,0 
Các loại đường khác 5,1 
2.1.2.3. Vitamin 
Trong hạt đậu nành còn chứa nhiều các loại Vitamin nhóm B (B1, B2, B6, B12), 
vitamin A, E, K… trừ vitamin C và vitamin D (Bảng 2.6) 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 11 
Bảng 2.6: Thành phần các vitamin trong hạt đậu nành [5] 
Vitamin Hàm lượng (mg/kg) 
Thiamin (B1) 11,0-17,5 
Riboflavin (B2) 3,4-3,6 
Niacine 21,4-23 
Pyridoxine (B6) 7,1-12 
Biotin 0,8 
Pantothenic acid 13-21,5 
Folic acid (B12) 1,9 
Inositol 2300 
Vitamin A 0,18-2,43 
Vitamin E 1,4 
Vitamin K 1,9 
2.1.2.4. Các chất khoáng 
Ngoài ra, thành phần khoáng chiếm khoảng 5% trọng lượng khô của hạt đậu 
nành như Ca, P, Mn, Zn, Fe, K, Na cần thiết cho cơ thể. (Bảng 2.7) 
Bảng 2.7: Thành phần các chất khoáng trong hạt đậu nành [5] 
Thành phần Hàm lượng 
Canxi 0,16-0,47 % 
Phospho 0,41-0,82 % 
Mangan 0,22-0,24 % 
Kẽm 37 mg/kg 
Sắt 90-150 mg/kg 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 12 
Cần lưu ý là trong hạt đậu nành có chứa các chất kháng enzyme tiêu hóa 
trypsin, chất sinh bứu giáp, chất ngưng kết hồng cầu, chất kháng vitamin. Các chất 
này dễ bị phân hủy bởi nhiệt độ. Vì vậy, cần đun nóng để loại trừ trước khi sử dụng 
làm thực phẩm. 
Các thành phần dinh dưỡng của sữa đậu nành, sữa bò, sữa mẹ được so sánh 
trong bảng 2.8. Qua đó dễ dàng nhận thấy giá trị dinh dưỡng của sữa đậu nành khá 
cao, tương đương với sữa bò 
Bảng 2.8: Thành phần dinh dưỡng của sữa đậu nành, sữa bò, sữa mẹ trong 
100ml sữa [4] 
Thành phần Sữa đậu nành Sữa bò Sữa mẹ 
Nước 88,60 88,60 88,60 
Protein 4,40 2,90 1,40 
Calories 52,00 59,00 62,00 
Chất béo 2,50 3,30 3,10 
Carbohydrates 3,80 4,50 7,20 
Chất tro 0,62 0,70 0,20 
Canxi 18,50 100,00 35,00 
Natri 2,50 36,00 15,00 
Phospho 60,30 90,00 25,00 
Sắt 1,50 0,10 0,20 
Vitamin B1 0,04 0,04 0,02 
Vitamin B2 0,02 0,15 0,03 
Niacin 0,62 0,20 0,20 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 13 
2.1.3. Giá trị dinh dưỡng của hạt đậu nành 
Hạt đậu nành có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. Cùng một mẫu đất, số 
thu hoạch chất đạm đậu nành nhiều hơn 33% so với bất kỳ một thứ nông sản nào 
khác. Đậu nành là thức ăn chứa đầy đủ các chất đạm, chất khoáng, chất đường, chất 
béo, vitamin có lợi cho sức khỏe, lại dễ tiêu hóa. Có thể được sử dụng để thay thế 
thịt, cá trong bữa ăn hàng ngày. Thêm vào đó, trong đậu nành có chứa chất lecithin 
giúp cho cơ thể con người trẻ lâu, sung sức, tăng thêm trí nhớ, tái tạo màng tế bào 
(kể cả tế bào thần kinh), làm cứng xương và tăng sức đề kháng của cơ thể. 
Ngoài ra, trong đậu nành còn có chứa các chất có tác dụng bảo vệ gan, ức chế 
monoaminoxydase A (MAO). Hơn nữa, do chất béo trong đậu nành là chất béo 
không bão hòa, nên làm giảm lượng cholesterol toàn phần trong máu, do đó làm 
giảm nguy cơ bị bệnh tim mạch nhất là bệnh xơ vữa động mạch. 
Trong đậu nành có các hợp chất giống như estrogen gọi là phytoestrogen 
(estrogen thực vật). Phụ nữ ở tuổi mãn kinh, nồng độ estrogen giảm, nếu một ngày 
sử dụng 25g đậu nành sẽ làm giảm cảm giác khó chịu. Hai chất estrogen trong đậu 
nành là daidzein và genistein còn có tác dụng ngăn ngừa ung thư vú, ngừa ung thư 
tuyến tiền liệt và bệnh ung thư dạ dày. 
2.1.4. Thu hoạch và bảo quản đậu nành 
2.1.4.1. Thu hoạch đậu nành 
Trái đậu nành khi chín thì vỏ từ màu vàng chuyển sang màu xám hoặc xám 
đen. Đó là lúc cho ta biết hạt đậu nành bên trong đã đến độ già, có thể thu hoạch 
được. 
Đậu nành có hai giai đoạn chín: 
• Thời kỳ chín sinh lý: Khi cây có 50% số lá chuyển sang màu vàng. 
• Thời kỳ chín hoàn toàn: hầu hết tất cả các lá trên cây đã vàng, rụng. 
Khoảng 95% số trái trên cây chuyển sang màu xám. Lúc này là thời điểm 
thích hợp để thu thoạch. 
Khi thu hoạch, ta cắt cây về, đem phơi khô đập lấy hạt. Nên thu vào lúc nắng 
ráo, phơi khô xong thì đập lấy hạt ngay. Sau khi, đập được hạt đậu nành, ta phải sàng 
kỹ để loại bỏ tạp chất, hạt lép… Sau đó đem phơi ba nắng nhẹ và độ ẩm không khí 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 14 
khoảng 75% là hạt có thể đạt được độ ẩm tốt, và có thể đem bảo quản. Độ ẩm của hạt 
đạt khoảng 12% bảo quản được ba năm, nếu độ ẩm 10% thì thời gian bảo quản có 
thể được bốn năm. Trước khi cho vào bảo quản, ta không nên đem hạt đậu nành còn 
nóng hổi ngoài nắng đem vào cất liền, mà nên để hạt vào chỗ mát độ vài giờ, rồi mới 
đóng gói nhập kho, hoặc cho vào lu bảo quản. Tuyệt đối không được phơi hạt giống 
trên sân gạch, xi măng. 
2.1.4.2. Bảo quản đậu nành 
Thời gian cho phép bảo quản đậu nành phụ thuộc vào đặc tính giống, công 
nghệ trước thu hoạch, nhiệt độ và ẩm độ không khí lúc bảo quản. Trong đó, nhiệt độ 
và ẩm độ là hai yếu tố quan trọng nhất. 
Độ ẩm hạt đậu nành càng thấp, thì càng tăng thêm thời gian bảo quản. Phơi 
càng khô, bảo quản càng được lâu hơn. Sau 2-3 giờ phơi khô, ta đưa đậu nành vào 
trong chum, vại hoặc bao tải đã được vệ sinh sạch sẽ. 
Có 2 cách bảo quản đậu nành: 
 Phương pháp cổ truyền 
Chum hoặc lọ sành, lọ thủy tinh không bị nứt, nẻ rửa sạch phơi khô, phía dưới 
đáy cho một lớp vôi bột khô, sau đó rải 1 lớp lá xoan khô rồi đổ đậu nành lên trên, 
song phủ lên trên một lớp lá xoan, nút kỹ và đưa vào bảo quản nơi khô ráo, thoáng. 
Có thể đặt dưới đáy lu vài cục than sống trước khi đổ đầy hạt vào. Sau đó lại để lên 
mặt đậu nành vài cục than sống nữa để hút ẩm, rồi mới đậy nắp kín lại. Hoặc: 
Đậu nành sau khi phơi khô, cho vào 2 lần túi ni lon, phía ngoài cùng là bao 
tải, buộc kín, để nơi khô ráo thoáng. Bao đặt trong kho không nên chất quá cao. 
 Phương pháp mới 
- Xử lý Basudin 10H: Liều lượng 10 g thuốc / 10 kg đậu nành 
- Cho vào túi nilon, buộc chặt 
- Cho vào keo nhựa, đậy kín 
- Bọc tiếp 1 lớp nilon 
- Đặt nơi thoáng mát 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 15 
2.1.5. Tình hình sản xuất đậu nành trên thế giới và ở Việt Nam 
2.1.5.1. Tình hình sản xuất đậu nành trên thế giới: 
Hiện nay, với giá trị dinh dưỡng cao và thời gian trồng ngắn, đậu nành đã trở 
thành cây trồng kinh tế quan trọng trên thế giới. Hàng năm, trên thế giới có khoảng 
52,6 triệu hecta trồng đậu nành với tổng sản lượng 92 triệu tấn. Mỹ là nước đứng đầu 
thế giới (23,6 triệu ha, 59,8 triệu tấn, 48% tổng diện tích và 56% tổng sản lượng), 
Brasil (10 triệu ha, 16 triệu tấn, chiếm 20% tổng sản lượng), đứng thứ ba là 
Achentina (4,9 triệu ha, 11,3 triệu tấn, 14% tổng sản lượng), và Trung Quốc (7,5 
triệu ha, 10 triệu tấn, 9% tổng sản lượng). 
Trong những năm gần đây do thời tiết thay đổi bất lợi, diện tích đất canh tác 
giảm nên đã làm giảm sản lượng hạt có dầu trên toàn cầu, đặc biệt là hạt đậu nành. 
Mỹ là nước xuất khẩu đậu nành lớn nhất trên thế giới. Trong năm 1999/2000, tổng 
sản lượng xuất khẩu đậu nành và các sản phẩm từ đậu nành khoảng 40% lượng đậu 
nành sản xuất ở Mỹ và trị giá 6,4 tỷ USD, nhưng gần đây sản lượng xuất khẩu đậu 
nành ở Mỹ giảm dần do nhu cầu sử dụng tăng và sự cạnh tranh của Brasil và 
Achentina. Trung Quốc là nước sản xuất đậu nành lớn thứ tư trên thế giới, song sự 
phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc đã thúc đẩy việc tiêu thụ thực 
phẩm, khiến Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu đậu nành dẫn đầu trên thế giới. 
[2] 
2.1.5.2. Tình hình sản xuất đậu nành ở Việt Nam: 
Đậu nành đã du nhập vào Việt Nam từ rất lâu, nhưng trong vài chục năm gần 
đây, nó mới được đặc biệt quan tâm và phát triển. Cây đậu nành có tác dụng bổ sung 
đạm cho đất, cho nên nông dân ta thường trồng cây đậu nành xen canh với các cây 
khác để cải tạo đất. Ngoài ra, giá trị dinh dưỡng của đậu nành rất cao, cho nên nó 
chiếm vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, diện tích trồng 
và sản lượng vẫn còn thấp so với các nước trên thế giới. 
Hiện nay, mỗi năm Việt Nam phải nhập khoảng 1 triệu tấn khô đậu nành 
(khoảng 420-430 USD/tấn) để phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến thức ăn gia 
súc và nhu cầu này còn liên tục tăng. Dự tính đến năm 2010 nhu cầu về đậu nành của 
Việt Nam sẽ từ 4,7-5,4 triệu tấn/năm, nhưng hiện sản lượng đậu nành của cả nước 
Đồ án tốt nghiệp GVHD: ThS. Bùi Đức Chí Thiện
 SVTH: Mai Hoàng Vũ 
 16 
chỉ đạt khoảng 200.000 tấn/năm. Vì vậy, mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra một lượng 
ngoại tệ rất lớn, hàng trăm triệu USD để nhập đậu nành về phục vụ cho ngành công 
nghiệp chế biến. 
Một nghịch lý xảy ra là điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Việt Nam thích hợp 
để phát triển cây đậu nành và có thể đẩy năng suất lên 3 tấn/hécta/vụ, thế nhưng mỗi 
năm nước ta lại phải nhập đậu nành vì sản lượng trong nước chỉ đáp ứng được 1/5 
nhu cầu. Đây cũng là nỗi trăn trở đối với ngành nông nghiệp Việt Nam. 
2.2. HẠT KEFIR 
2.2.1. Giới thiệu hạt Kefir 
Hạt Kefir là hỗn hợp nấm men - vi khuẩn có thể làm biến đổi sữa nhờ một hệ 
vi sinh vật phức tạp gồm vi khuẩn lactic và nấm men được chứng minh là rất có lợi 
cho sức khỏe. Chúng cùng phát triển cộng sinh trên môi trường sữa. Do đó, sản 
phẩm Kefir có vị chua đặc trưng và thoảng nhẹ mùi nấm men. Từ rất lâu, dân miền 
núi Caucasus thuộc nước Xô viết cũ - nguyên quán của kefir - đã bào chế nó từ sữa 
của các sinh vật khác nhau và Kefir được lên men tự nhiên trong những túi da thú. 
Theo các bộ tộc người ở đây, họ xem Kefir như là quà tặng của đấng Allah, họ sử 
dụng Kefir từ thuở ấu thơ và cứ như vậy duy trì từ thế hệ này đến thế hệ khác. Đến 
cuối thế kỷ 19, Kefir trở thành sản phẩm quen thuộc của người dân các nước vùng 
Đông Âu (Nga, Ucraina, Ba Lan, Czech, Hungari…) và các nước vùng Scandinavia. 
Mãi những năm đầu của thế kỷ 20, hạt Kefir được sản xuất quy mô công nghiệp với 
số lượng nhỏ ở Moscow (Nga). 
Nguyên liệu để sản xuất Kefir có thể là sữa dê, sữa cừu hay sữa bò. Theo 
Oberman H và Libudziss. Z (1998), đầu tiên người ta lên men sữa thành Kefir trong 
các túi làm bằng da thú hoặc bồn bằng gỗ sồi. Đến năm 1950, một phương pháp sản 
xuất kefir mới đã được công nhận về chất lượng đó là phương pháp lên men có 
khuấy trộn. 
Hiện nay, có hai loại Kefir, một loại lên men từ nước trái cây và đường, một 
loại được lên men từ sữa của các loài động vật. Tuy nhiên, ở luận văn này, chúng tôi 
sẽ nghiên cứu lên men Kefir từ sữa đậu nành, đây l