Bia là loại nước uống có độ cồn thấp được sản xuất bằng quá trình lên men của đường trong môi trường lỏng và không được chưng cất sau khi lên men. Nói cách khác, bia là loại nước giải khát có bọt mịn xốp và có hương vị đặc trưng của hoa houblon. Đặc biệt CO2 hòa tan trong bia có tác dụng giải nhiệt nhanh, hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa, ngoài ra trong bia còn chứa một lượng vitamin khá phong phú (chủ yếu là vitamin nhóm B như vitamin B1, B2, PP. . .). Nhờ những ưu điểm này, bia được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới với sản lượng ngày càng tăng. Đối với nước ta bia đã trở thành loại đồ uống quen thuộc với sản lượng ngày càng lớn và đã trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn trong ngành công nghiệp nước ta.
Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do các thành phần sử dụng để sản xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, những đặc trưng của bia như hương vị và màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân loại khác.
1.22. Lịch sử
Bia là một trong các đồ uống lâu đời mà loài người đã tạo ra, có niên đại ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 5 trước công nguyên và được ghi chép lại trong các thư tịch cổ của Ai Cập cổ đại và Lưỡng hà (Mesopotamia).
Giống như phần lớn các chất chứa đường khác có thể bị lên men một cách tự nhiên, các đồ uống tương tự như bia đã được phát minh một cách độc lập giữa các nền văn minh trên toàn thế giới. Việc kiểm định hóa học các bình gốm cổ phát hiện ra rằng bia (tương tự như rượu vang) đã được sản xuất khoảng 7000 năm trước ở Iran và là một trong số các công nghệ sinh học đã biết, trong đó các quy trình sinh học của sự lên men được áp dụng.
Tại Lưỡng Hà, chứng cứ lâu đời nhất về bia là bức vẽ 6.000 năm tuổi của người Sumeria miêu tả những người đang uống một thứ đồ uống bằng các cần hút bằng sậy từ thùng công cộng. Bia cũng được đề cập tới trong thiên sử thi Gilgamesh, một bản trường ca 3900 năm tuổi của người Sumeria để tỏ lòng tôn kính nữ thần Ninkasi, vị thần bảo trợ cho bia, nó chứa công thức làm bia cổ nhất còn sót lại và miêu tả việc sản xuất bia từ lúa mạch thông qua bánh mì. Bia đã trở thành thiết yếu đối với tất cả các nền văn minh trồng ngũ cốc ở thế giới phương Tây cổ xưa, đặc biệt là ở Ai Cập và Lưỡng Hà. Người Thracia cũng được biết là đã sử dụng bia sản xuất từ lúa mạch đen, thậm chí từ thế kỉ 5 trước công nguyên, như Hellanicos đã viết trong vở các opêra. Tên gọi cho bia của họ là brutos hay brytos.
Sự bổ sung hoa bia vào bia để tạo vị đắng, bảo quản và hương vị cho bia là một phát kiến tương đối mới. Trong thời trung cổ nhiều hỗn hợp khác của các loại thảo mộc thông thường được cho vào bia chứ không phải hoa bia. Các hỗn hợp này thông thường được gọi là “gruit”. Hoa bia đã được trồng tại Pháp sớm nhất là vào khoảng thế kỷ 9. Văn bản cổ nhất còn sót lại có ghi chép về việc sử dụng hoa bia trong bia có niên đại vào năm 1067 bởi nữ tu viện trưởng kiêm nhà văn Hildegard: "Nếu người ta định làm bia từ yến mạch, nó được chuẩn bị cùng hoa bia."
101 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5342 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Khảo sát quy trình công nghệ sản xuất bia tại nhà máy bia Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ BIA
1.1. Khái niêm
Bia là loại nước uống có độ cồn thấp được sản xuất bằng quá trình lên men của đường trong môi trường lỏng và không được chưng cất sau khi lên men. Nói cách khác, bia là loại nước giải khát có bọt mịn xốp và có hương vị đặc trưng của hoa houblon. Đặc biệt CO2 hòa tan trong bia có tác dụng giải nhiệt nhanh, hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa, ngoài ra trong bia còn chứa một lượng vitamin khá phong phú (chủ yếu là vitamin nhóm B như vitamin B1, B2, PP. . .). Nhờ những ưu điểm này, bia được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới với sản lượng ngày càng tăng. Đối với nước ta bia đã trở thành loại đồ uống quen thuộc với sản lượng ngày càng lớn và đã trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn trong ngành công nghiệp nước ta.
Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do các thành phần sử dụng để sản xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, những đặc trưng của bia như hương vị và màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân loại khác.
1.22. Lịch sử
Bia là một trong các đồ uống lâu đời mà loài người đã tạo ra, có niên đại ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 5 trước công nguyên và được ghi chép lại trong các thư tịch cổ của Ai Cập cổ đại và Lưỡng hà (Mesopotamia).
Giống như phần lớn các chất chứa đường khác có thể bị lên men một cách tự nhiên, các đồ uống tương tự như bia đã được phát minh một cách độc lập giữa các nền văn minh trên toàn thế giới. Việc kiểm định hóa học các bình gốm cổ phát hiện ra rằng bia (tương tự như rượu vang) đã được sản xuất khoảng 7000 năm trước ở Iran và là một trong số các công nghệ sinh học đã biết, trong đó các quy trình sinh học của sự lên men được áp dụng.
Tại Lưỡng Hà, chứng cứ lâu đời nhất về bia là bức vẽ 6.000 năm tuổi của người Sumeria miêu tả những người đang uống một thứ đồ uống bằng các cần hút bằng sậy từ thùng công cộng. Bia cũng được đề cập tới trong thiên sử thi Gilgamesh, một bản trường ca 3900 năm tuổi của người Sumeria để tỏ lòng tôn kính nữ thần Ninkasi, vị thần bảo trợ cho bia, nó chứa công thức làm bia cổ nhất còn sót lại và miêu tả việc sản xuất bia từ lúa mạch thông qua bánh mì. Bia đã trở thành thiết yếu đối với tất cả các nền văn minh trồng ngũ cốc ở thế giới phương Tây cổ xưa, đặc biệt là ở Ai Cập và Lưỡng Hà. Người Thracia cũng được biết là đã sử dụng bia sản xuất từ lúa mạch đen, thậm chí từ thế kỉ 5 trước công nguyên, như Hellanicos đã viết trong vở các opêra. Tên gọi cho bia của họ là brutos hay brytos.
Sự bổ sung hoa bia vào bia để tạo vị đắng, bảo quản và hương vị cho bia là một phát kiến tương đối mới. Trong thời trung cổ nhiều hỗn hợp khác của các loại thảo mộc thông thường được cho vào bia chứ không phải hoa bia. Các hỗn hợp này thông thường được gọi là “gruit”. Hoa bia đã được trồng tại Pháp sớm nhất là vào khoảng thế kỷ 9. Văn bản cổ nhất còn sót lại có ghi chép về việc sử dụng hoa bia trong bia có niên đại vào năm 1067 bởi nữ tu viện trưởng kiêm nhà văn Hildegard: "Nếu người ta định làm bia từ yến mạch, nó được chuẩn bị cùng hoa bia."
Tại châu Âu, trong thời Trung cổ, bia chủ yếu được sản xuất trong gia đình. Vào thế kỷ 14 và 15, việc sản xuất bia đã dần dần chuyển từ hoạt động gia đình sang hoạt động thủ công, với các quán bia và tu viện sản xuất bia của mình hàng loạt để tiêu thụ.
Trong thế kỷ 15, ở Anh loại bia không có hoa bia được biết đến như là ale, còn việc sử dụng hoa bia thì đồ uống đó gọi là bia. Bia có chứa hoa bia được nhập khẩu vào Anh từ Hà Lan sớm nhất là từ năm 1400 ở Winchester, và hoa bia đã được trồng trên quốc đảo này từ năm 1428. Tính phổ biến của hoa bia ban đầu là hỗn hợp-Công ty bia rượu London đã đi xa tới mức ra thông báo "không hoa bia, không thảo mộc hoặc những gì khác tương tự được cho vào bất kỳ ale hay rượu nào sẽ được sản xuất - mà chỉ có liquor (nước), mạch nha, và men bia". Tuy nhiên, vào thế kỷ 16, ale đã được dùng để chỉ các loại bia mạnh (nồng độ cồn cao), và tất cả ale và bia đều sử dụng hoa bia.
Hình 1.1: Một số loại bia sử dụng rộng rãi ở Việt Nam
Năm 1516, WilliamIV, Công tước xứ Bavaria, đã thông qua Reinheitsgebot (Luật tinh khiết), là quy định về thực phẩm cổ nhất còn áp dụng đến nay. Gebot quy định rằng thành phần của bia chỉ bao gồm nước, lúa mạch hoa bia, với men bia được bổ sung sau phát kiến của Louis Pasteur vào năm 1857. Luật của người Bavaria đã được áp dụng trong cả nước Đức như là một phần của nước Đức thống nhất năm 1871 thành đế chế Đức dưới thời Otto von Bismarck, và kể từ đó đã được cập nhật để phản ánh xu hướng hiện đại trong sản xuất bia rượu. Cho đến nay, Gebot vẫn được coi là tiêu chuẩn của độ tinh khiết cho bia, mặc dù điều này có thể gây tranh cãi.
Phần lớn các loại bia cho đến thời gian gần đây thực chất là thứ mà ngày nay gọi là ale. Bia lager đã được phát hiện ra một cách tình cờ vào thê kỷ 16 sau khi bia được lưu trũ trong các hầm lạnh một thời gian dài; kể từ đó nó đã được sản xuất nhiều hơn ale.
Với sự phát minh ra động cơ hơi nước năm 1765, công nghiệp hóa sản xuất bia đã trở thành sự thật. Các cải tiến mới trong công nghệ sản xuất bia đã xuất hiện cùng với sự ra đời của nhiệt kế và tỷ trọng kế vào thế kỷ 19, đã cho phép các nhà sản xuất bia tăng tính hiệu quả và kiểm soát nồng độ cồn. Cho đến cuối thế kỷ 18,mạch nha chủ yếu được làm khô bằng lửa do đốt gỗ, than củi, trấu, và sau năm 1600 là từ than cốc. Nói chung, không có loại mạch nha nào trong số này được che chắn tốt khỏi khói sinh ra trong các lò sấy, và do đó các loại bia thời kỳ đó có thành phần hơi khói trong hương vị của chúng; các chứng cứ chỉ ra rằng các nhà sản xuất mạch nha và bia thường xuyên phải cố gắng giảm thiểu sự ám khói của bia thành phẩm. Sự phát minh ra lò nướng hình trống năm 1817 của Daniel Wheeler đã cho phép tạo ra mạch nha nướng chín kỹ và tạo tiền đề cho sản xuất các loại bia đen (porter và stout). Sự phát minh ra vai trò của men bia trong quá trình lên men vào năm 1857 bởi Louis Pasteur giúp cho các nhà sản xuất phương pháp ngăn chặn vị chua của bia bởi các loại vi sinh vật không mong muốn.
Năm 1953, Morton W Coutts, một người New Zealand đã phát triển kỹ thuật lên men liên tục. Morton lấy bằng sáng chế công nghệ của ông và nó là một cuộc cách mạng trong công nghiệp bia do nó làm giảm thời gian ủ và sản xuất bia trước đây là 4 tháng xuống còn chưa đầy 24 giờ. Công nghệ của ông vẫn được sử dụng bởi nhiều nhà sản xuất bia lớn nhất thế giới ngày nay, bao gồm cả Guinness .
Ngày nay, công nghiệp bia là công việc kinh doanh khổng lồ toàn cầu, bao gồm chủ yếu là các tổ hợp được ra đời từ các nhà sản xuất nhỏ hơn. Trong khi bia chủ yếu là đồ uống chứa cồn thì một số biến thái của nó cũng tồn tại, xuất phát từ thế giới phương Tây, là các loại bia đi qua công đoạn xử lý để loại bỏ bớt cồn, sản xuất ra cái gọi là bia không cồn.
1.3. Các loại bia
Có nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại bia được coi là thuộc về một kiểu bia cụ thể nào đó. Kiểu bia là mác dán miêu tả hương vị tổng thể và thông thường là nguồn gốc của bia, phù hợp với hệ thống đã tiến hóa qua các lần thử và các sai số qua nhiều thế kỷ.
Yếu tố chính để xác định loại bia là men bia sử dụng trong quá trình lên men. Phần lớn kiểu bia thuộc về một trong hai họ lớn: ale- sử dụng lên mem nổi hoặc lager- sử dụng lên men chìm. Bia có đặc trưng pha trộn của cả ale và lager được gọi là bia lai. Đồ uống chứa cồn sản xuất từ việc lên men đường thu được từ các nguồn không phải là ngũ cốc nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng cũng được sản xuất bằng cùng một phản ứng sinh học gốc men bia. Mật ong lên men được gọi là rượu mật ong, nước táo lên men được gọi là rượu táo, nước lê lên men được gọi rượu lê, còn nước nho lên men được gọi là rượu vang.
Ale: Ale là bất kỳ loại bia nào được sản xuất bằng lên men nổi, và nó thông thường được lên men ở nhiệt độ cao hơn so với bia lager (15-23oC). Các men bia ale ở các nhiệt độ này tạo ra một lượng đáng kể các ester , các hương liệu thứ cấp và các sản phẩm tạo mùi khác, và kết quả là bia tạo ra có mùi vị của hoa hay quả tương tự (nhưng không chỉ có thế) như táo, lê, dứa, cỏ, cỏ khơ, chuối mận hay mận khô. Các khác biệt về kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và nhiều loại bia ale rất khó để phân loại chúng.
Lager: Lager là loại bia được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Chúng có nguồn gốc từ vùng Trung Âu, có tên gọi này là từ lagern ("lưu trữ") trong tiếng Đức. Men bia lager là loại lên men chìm, thông thường được lên men ở nhiệt độ 7-12°C (45-55°F) ("pha lên men"), và sau đó được lên men thứ cấp lâu ở 0-4°C (30-40°F) ("pha lager hóa"). Trong giai đoạn lên men thứ cấp, lager được làm trong và chín. Các điều kiện lạnh cũng kiềm chế việc sản xuất tự nhiên các ester và các phụ phẩm khác, tạo ra hương vị "khô và lạnh hơn" của bia.
Chương 2. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY BIA SÀI GÒN
2.1. Giới thiệu chung
Công ty bia Sài Gòn là một công ty trực thuộc Tổng công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn.
Tên tiếng Anh: Saigon Beer Alcohol - Beverage Corporation
Tên viết tắt: SABECO
Địa chỉ: Số 187 - Nguyễn Chí Thanh, Quận 5, TP. HCM
Điện thoại: 088.559595
Fax: 088.577095
Email: saigonbeer@hcm.vnn.vn
2.2 Lịch sử hình thành và phát triển công ty
Tiền thân của Tổng Công ty Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn trước đây là một Nhà máy của tư bản Pháp được xây dựng từ những năm 1875.
Đến tháng 6/197, Công ty Rượu Bia Miền Nam chính thức tiếp nhận và quản lý Nhà máy Bia Chợ Lớn từ Hãng BGI và hình thành nên Nhà máy Bia Sài Gòn.
Năm 1993, Nhà máy được đổi tên thành Công ty Bia Sài Gòn và trở thành một trong những Công ty có trang thiết bị hiện đại nhất trong ngành bia Việt Nam.
Với truyền thống lâu đời trên 100 năm trong ngành sản xuất bia, chất lượng sản phẩm của Công ty Bia Sài Gòn không ngừng được nâng cao nhờ sự kết hợp đồng bộ giữa công nghệ truyền thống, thiết bị hiện đại, nguyên liệu ngoại nhập từ những nước có nguồn nguyên liệu nổi tiếng trên thế giới với việc đổi mới phương thức quản lý. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần ổn định chất lượng sản phẩm là hệ thống phương tiện kỹ thuật kiểm tra tiên tiến được đánh giá đạt đẳng cấp quốc gia và hệ thống đảm bảo chất lượng cho sản phẩm bia chai và bia lon phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9001:2000.
Từ năm 1992, với uy tín trong nước, sản phẩm của Công ty Bia Sài Gòn đã vươn ra có mặt trên thị trường khó tính nhất như: Nhật, Úc, Mỹ, EU, Singapore, Hongkong,...
Năm 2000, Công ty Bia Sài Gòn là doanh nghiệp sản xuất bia đầu tiên của Việt Nam đạt và vượt mốc sản lượng 200 triệu lít/năm.
Tháng 7/2003, Công ty Bia Sài Gòn phát triển lớn mạnh thành Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) và trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong ngành sản xuất bia Việt Nam. Công ty đã tạo cho mình một nền tảng vững chắc, đạt trình độ của một nhà quản lý hiện đại, cùng cả nước tiến những bước phát triển vững chắc vào thiên niên kỷ mới.
Năm 2004, SABECO đạt sản lượng hơn 403 triệu lít bia các loại, trong đó có 268 triệu lít bia sản xuất tại đại bản doanh . Công ty Bia Sài Gòn. Số còn lại gia công tại 10 nhà máy bia địa phương.
Hiện nay, thực hiện theo quyết định số 37/2004/QĐ-BCN chỉ đạo của Bộ Công nghiệp, Tổng công ty đã xây dựng phương án cổ phần hoá toàn bộ Công ty mẹ và Công ty TNHH một thành viên Thương mại Dịch vụ Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn dưới hình thức bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
2.3. Các đơn vị thành viên của SABECO
Công ty cổ phần rượu Bình Tây
Công ty nước giải khát Chương Dương
Công ty Thương mại Dịch vụ Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn
Nhà máy thủy tinh Phú Thọ
2.4. Bố trí mặt bằng
1
Phân xưởng nấu
14
Bồn vôi
27
Phân phối gió
2
Hầm nước
15
Thiết bị PCCC
28
Phòng lọc bia
3
Lò hơi
16
Xử lý nước
29
Phòng lạnh
4
Tổ mộc-hồ
17
Xử lý nước
30
TBF
5
Tổ xe súc
18
Bia chai 1
31
Tank out door
6
Tổ nước giải nhiệt
19
Bia lon 1
32
Cabin điện
7
Tổ máy động lực
20
Bia chai 2
33
Máy phát điện
8
Bồn dầu DO
21
Bia lon 2
34
Phân xưởng cơ khí
9
VP kho vận
22
Bia chai 3
35
Tổ điện
10
Phòng vệ sinh nữ
23
Thu hồi CO2
36
Tổng đài
11
Phòng vệ sinh nam
24
Kho vật tư
37
Bảo vệ cổng ra
12
Bồn soude
25
Văn phòng y tế
38
Bảo vệ
13
Bảo vệ cổng vào
26
Lọc
2.5. Sơ đồ tổ chức và bố trí nhân sự
Toång giaùm ñoác
Tröôûng kho vaät tö
GÑ Cung ÖÙng
TP Cung ÖÙng
Phoøng kinh doanh
GÑ PX naáu
GÑ PX leân men
GÑ PX chieát chai
GÑ PX ñoäng löïc
GÑ PX baûo trì
GÑ PX nuùt khoeùn
Ngaønh Kho Vaän
Ngaønh Vaän Taûi
Ngaønh y teá
Ban ñôøi soáng
GÑSXDDLÑ
GÑ Kho Vaän
GÑ Dòch Vuï
GÑ Tieâu thuï
Lieân doanh
GÑXNThaønh vieân
TP Kyõ thuaät
TP QA
TP Toå chöùc
TP KHTH
TP Taøi vuï
TP XDCB
TP Baûo veä
TP HCQT
Chương 3. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA
3.1. Nguyên liệu
3.1.1. Nước
Nước là nguyên liệu chính để sản xuất bia và chiếm 80 ¸ 90% trọng lượng bia thành phẩm.
Thành phần của nước ảnh hưởng rất lớn đến công nghệ và chất lượng bia thành phẩm. Tùy theo mục đích sử dụng mà yêu cầu chất lượng của nước cũng khác nhau.
Bảng 1.3: Chỉ tiêu chất lượng nước
STT
Chỉ tiêu kiểm tra
Yêu cầu
1
pH
6,5-7,5
3
Độ kiềm tổng TAC
£ 4oF
4
Độ cứng tổng hợp TH
£ 5oF
5
Hàm lượng muối (quy về NaCl)
£ 50 mg/l
6
Độ đục
£ 20%
3.1.1.1. Phân loại
3.1.1.1.1 Phân loại nước theo mục đích sử dụng
a. Nước công nghệ
Là nước có mặt trong sản phẩm tạo thành cuối cùng. Đó chính là nước dùng nấu bia và pha bia.
Ảnh hưởng của các ion có trong nước đến công nghệ sản xuất bia
Ion
Ảnh hưởng
H+, OH-
- Thay đổi pH
Ca2+
- Mức cho phép trong nước: Ca2+ £ 200 mg/l
- Quyết định độ cứng của nước.
- Thường tồn tại dưới dạng Ca(HCO3)2 ® ảnh hưởng xấu đến quá trình nấu bia, do làm giảm độ acid của hồ malt và dịch đường hoá.
- Gây tủa muối photphat trong dịch đường ® làm giảm pH của dịch đường.
- Tăng tính bền của a- amylase.
Mg2+
- Mức cho phép trong nước: Mg2+ £ 30 mg/l
- Quyết định độ cứng của nước.
- Hàm lượng trong nước tuy ít hơn Ca2+, nhưng gây tác dụng xấu hơn Ca2+, vì:
Các muối Mg2+ hòa tan mạnh hơn các muối Ca2+ (MgCO3 tan tốt trong nước còn CaCO3 thì không) ® ảnh hưởng đến pH.
Muối MgSO4 có vị đắng chát rất khó chịu. Trong sản xuất bia ta cần vị đắng của hoa Houblon khác hẳn với vị đắng của Mg2+ ® cần khống chế hàm lượng Mg2+.
Þ Làm ảnh hưởng đến chất lượng bia: màu sắc, mùi, vị.
Na+
- Tồn tại trong nước dưới dạng Na2CO3, NaHCO3, Na2SO4 hay NaCl.
Na2CO3 và NaHCO3: làm giảm độ acid của hồ malt.
Na2SO4 với hàm lượng cao: tạo cho bia có vị đắng (nhưng không khó chịu như muối Mg2+)
NaCl (£ 200 mg/l): ảnh hưởng tốt đến mùi, vị bia. Tạo vị mặn.
Zn2+
- Nếu hàm lượng cao ® là yếu tố đầu độc nấm men ® kìm hãm một số enzym có trong nấm men.
- Nếu sử dụng 0,1 ¸ 0,2 mg/l ® kích thích sự tăng trưởng của nấm men.
Fe2+
- Thường tồn tại dưới dạng Fe(HCO3)2: hàm lượng cao sẽ gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng bia.
- Cho phép 0,2 ¸ 0,5 mg/l.
CO32-, HCO3-
- Nước dùng nấu bia nếu chứa thành phần muối carbonate và bicarbonate (nhất là Na2CO3) thì sẽ hòa tan chất đắng, chất chát trong vỏ malt, tạo vị đắng khó chịu cho bia thành phẩm.
b. Nước phi công nghệ
Là nước không tham gia vào sản phẩm tạo thành cuối cùng. Bao gồm:
Nước dùng ngâm đại mạch để sản xuất malt: yêu cầu quan trọng nhất là nước không chứa nhiều tạp chất hữu cơ và VSV.
Nước dùng để rửa nấm men và thiết bị:
Nước rửa nấm men cần phải sạch, không chứa nhiều hợp chất hữu cơ và không chứa VSV.
Nước rửa thiết bị nên có độ cứng thấp đến trung bình, không chứa NH3 và các muối nitrit.
3.1.1.1.2 Phân loại nước theo nguồn cung cấp
Hiện nay, công ty sử dụng hai nguồn nước: nước giếng và nước thành phố.
a. Nguồn nước thành phố
Cung cấp khoảng 1400 -1500 m3/ ngày. Nó được sử dụng để nấu bia và thường được kiểm tra để đảm bảo chắc chắn nguồn nước đem nấu bia đạt yêu cầu kỹ thuật. Công ty có hai bể dự trữ: một bể dung tích 150m3 và một bể dung tích 450m3.
b. Nguồn nước giếng
Công ty sử dụng 5 giếng khoan. Nước giếng thường không đạt tiêu chuẩn để nấu bia và không ổn định nên chủ yếu sử dụng cho việc vệ sinh nhà xưởng, thiết bị…
3.1.2. Malt
Malt của nhà máy được nhập từ nước Australia và Canada. Nhà máy có 6 silo dùng để bảo quản malt, mỗi silo có sức chứa 80 tấn.
a. Khái niệm
Tất cả những hạt ngũ cốc, nếu được ươm mầm với sự kiểm soát chặt chẽ của các điều kiện kỹ thuật (độ ẩm, nhiệt độ và mức độ thông gió), sử dụng trong công nghệ sản xuất bia đều có thể gọi chung là malt (như malt thóc, malt bắp, malt lúa mì…)
Malt là sản phẩm được chế biến từ các loại hạt hòa thảo như đại mạch, tiểu mạch, thóc, ngô… sau khi cho nảy mầm ở điều kiện nhân tạo và sấy đến độ ẩm nhất định với điều kiện bắt buộc.
Malt là một loại bán thành phẩm và giàu chất dinh dưỡng: 16 – 18% chất thấp phân tử dễ hòa tan + hệ enzyme đặc biệt phong phú, chủ yếu là amylaza và proteaza.
Hình 1.2: Malt
b. Vai trò
Malt cung cấp toàn bộ lượng glucid (chủ yếu dưới dạng tinh bột) để chuyển hóa thành đường, và từ đường chuyển hóa thành cồn và các chất khác. Để giảm giá thành, người ta có thể sử dụng ngũ cốc làm thế liệu, và lượng tối đa là 50% chứ không thể thay thế hoàn toàn malt.
Malt chứa đầy đủ enzym amilaza để thủy phân tinh bột. Nếu sử dụng thế liệu nhiều thì lượng enzym này cung cấp không đầy đủ và ta buộc phải bổ sung enzym từ bên ngoài vào, chủ yếu là enzym từ vi sinh vật.
Malt cung cấp khá đủ lượng protein và có chứa hệ enzym proteaza để thủy phân chúng. Trong giai đoạn ươm mầm, hệ enzym này được hoạt hóa mạnh mẽ. Khi chuyển sang giai đoạn nấu, chúng thủy phân protein tạo thành các phức chất có khả năng giữ CO2 tốt, tạo vị bia đặc trưng.
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu kiểm tra malt
STT
Chỉ tiêu kiểm tra
Tiêu chuẩn
1
Ngoại quan
Màu vàng rơm, không có mốc, không sâu mọt
2
Độ ẩm
£ 5%
3
Độ hòa tan trên chất khô xay nhuyễn
³ 80%
4
Protein tổng
9,5-11%
5
Hoạt lực
260-320WK
6
Cỡ hạt >2,5 mm
< 2,2 mm
³ 85%
£ 1,5%
7
Độ trong
£ 5 EBC
8
Thời gian đường hoá
< 15phút
9
Tốc độ lọc
Bình thường
10
Độ màu
3,0-4,5 EBC
11
pH
5,6-6
12
Protein hòa tan
4,0-4,7%
13
Chỉ số Kolbatch
38-43
3.1.3. Thế liệu
Tỷ lệ thế liệu của công ty là 25%, tỷ lệ malt lót là 10 - 20% so với thế liệu.
Công ty Bia Sài Gòn chỉ dùng một loại thế liệu duy nhất đó là gạo.
Nguồn gốc: gạo được mua từ các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.
a. Mục đích
Trong sản xuất bia, việc dùng thế liệu thay cho malt tùy thuộc vào điều kiện chủ quan và khách quan, có thể nhằm các mục đích:
Hạ giá thành sản phẩm.
Cải thiện một vài tính chất của sản phẩm.
Tạo ra chủng loại bia có các mức độ phẩm cấp chất lượng khác nhau.
b. Các loại thế liệu thường được sử dụng
3.1.3.1 Gạo
Sử dụng nhiều ở các nước Châu Á hoặc vùng Trung Đông.
Là một thế liệu hàng đầu để sản xuất bia vì:
Hàm lượng glucid và protein khá cao, khả năng chuyển hóa thành chất hòa tan tốt.
Giá thành rẻ và phổ biến.
Hàm lượng lipid thấp nên không ảnh hưởng xấu đến độ bền bọt.
Cellulose ở giới hạn thấp là yếu tố lý tưởng cho việc sản xuất bia.
Bảng 3.3: Chỉ tiêu kiểm tra gạo
STT
Chỉ tiêu kiểm tra
Yêu cầu
1
Độ ẩm
£ 14,5%
2
Tạp chất
£ 0,05%
3
Ngoại quan
Không mốc, không có sâu mọt, không có mùi lạ
4
Độ hòa tan
³ 79%
3.1.3.2 Bắp
Được sử dụng ở các nước Mỹ Latinh hoặc Châu Phi.
Có phôi khá lớn (9 – 15% trọng lượng hạt).
Vì chất béo có trong phôi với hàm lượng khá cao nên thường làm giảm chất lượng của bia, giảm độ bền của bọt, khi bia bị oxy hóa thì cho mùi khó chịu. Do đó khi dùng bắp làm thế liệu, cần phải bỏ phôi trước cùng vỏ hạt.
3.1.3.3 Gạo mì
Do đặc tính của gạo mì không có vỏ trấu như đại mạch, mặt khác hàm lượng gluten quá cao, muốn dùng gạo mì làm thế liệu cho malt đại mạch, thường phải cho ươm mầm rồi dùng kết hợp với malt. Nếu dùng thẳng bột mì chưa ươm mầm, thường là nguyên nhân trở ngại cho quá trình lọc dịch đường và lọc bia, rất khó trong suốt.
3.1.3.4 Đậu
Hàm lượng tinh bột không lớn (< 40% trọng lượng hạt) ® sử dụng đậu không phải dùng làm thế liệu cho malt mà với các mục đích sau:
Trong đậu chứa các glucozit có tính saponin, làm cho bia có khả năng tạo bọt mạnh.
Hàm lượng protein trong đậu rất cao, do đó các acid amin từ nguồ