Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và quan trọng bậc nhất với mỗi quốc gia. Là cơ sở không gian của mọi quá trình sản xuất, là TLSX đặc biệt trong nông nghiệp, là thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đất đai là nguồn tài nguyên có giới hạn về số lượng, là TLSX không gì có thể thay thế được đặc biệt là trong nông nghiệp.
William petti từng nói:”Lao động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ”. Qua đó chúng ta càng thấy được tầm quan trọng của đất. Đất là đầu mối cho mọi quá trình sản xuất, là cơ sở để sản xuất ra của cải vật chất.
Đứng trước tình hình sử dụng đất đang còn nhiều bất hợp lý hiện nay yều cầu đặt ra là chúng ta phải bố trí, sắp xếp nền sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, các công trình xây dựng cơ bản, các khu dân cư và các công trình văn hóa phúc lợi một cách hợp lý hơn. Dựa trên những yêu cầu đó QHSDĐ đã ra đời và đáp ứng giải quyết được phần nào những bất hợp lý tồn tại trong sử dụng đất, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường.
“QHSDĐ là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức, sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông qua việc phân phối quỹ đất cả nước, tổ chức sử dụng đất như một TLSX cùng với các TLSX khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và môi trường”
Hiện nay tình hình sử dụng đất tuy đã đước cải tạo so với trước đây: Đã giải quyết được nhiều yếu kém về phân bố đất, quy hoạch đất, sử dụng đất, đã giải quyết được nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo nhưng vẫn tồn tại những bất cập lớn: Vẫn còn tình trạng quy hoạch “Treo” gây ra đất bỏ hoang, lãng phí tài nguyên đất, tồn tiền của của nhà nước, vẫn còn khiếu nại của người dân về cách giải quyết sai phạm của những công chức có quyền để thu lợi cho các nhân, còn nhiều cán bộ chưa có đủ trình độ học vấn, năng lực. các điều luật còn chồng chéo, thủ tục rườm rà và đó cũng chính là nguyên nhân làm kìm hãm sự phát triển của các ngành nông nghiệp,công nghiệp, dịch vụ: Phân bố đất nông nghiệp không hợp lý cho từng loại cây trồng làm giảm năng suất, chất lượng, sản phẩm của cây trồng; Phân bố không hợp lý cho xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ làm không phát huy được hết sức sản xuất của máy, tăng chi phi phục vụ cho sản xuất, ngành dịch vụ thu được lợi nhuận thấp do đó lợi nhuận phát triển kinh tế không cao, nền kinh tế chưa phát huy đước hết tiềm năng phát triển. Mặt khác dân số ngày càng tăng, nhu cầu đất ở lên cao do vậy QHSDĐ không chỉ cần thiết cho quản lý và sử dụng đất trước đây mà ngày nay nó càng quan trọng, QHSDĐ đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao là một mục tiêu thiết yếu, là cơ sở, nền tảng cho một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh. Đảng và nhà nước ta đã nhận định được tầm quan trọng đó nên QHSDĐ là một trong các nội dung về quản lý đất đai của nhà nước, được quy định rõ tại Điều 6 - Luật đất đai 2003.
56 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3996 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Môn học quy hoạch sử dụng đất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP I
ĐỒ ÁN MÔN HỌC
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
Giáo viên hướng dẫn : TS.ĐỖ THỊ TÁM
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ THÀNH VINH
Lớp : QL49B
HÀ NỘI – 2007
Phần thứ nhất:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và quan trọng bậc nhất với mỗi quốc gia. Là cơ sở không gian của mọi quá trình sản xuất, là TLSX đặc biệt trong nông nghiệp, là thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đất đai là nguồn tài nguyên có giới hạn về số lượng, là TLSX không gì có thể thay thế được đặc biệt là trong nông nghiệp.
William petti từng nói:”Lao động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ”. Qua đó chúng ta càng thấy được tầm quan trọng của đất. Đất là đầu mối cho mọi quá trình sản xuất, là cơ sở để sản xuất ra của cải vật chất.
Đứng trước tình hình sử dụng đất đang còn nhiều bất hợp lý hiện nay yều cầu đặt ra là chúng ta phải bố trí, sắp xếp nền sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, các công trình xây dựng cơ bản, các khu dân cư và các công trình văn hóa phúc lợi một cách hợp lý hơn. Dựa trên những yêu cầu đó QHSDĐ đã ra đời và đáp ứng giải quyết được phần nào những bất hợp lý tồn tại trong sử dụng đất, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường.
“QHSDĐ là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức, sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông qua việc phân phối quỹ đất cả nước, tổ chức sử dụng đất như một TLSX cùng với các TLSX khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và môi trường”
Hiện nay tình hình sử dụng đất tuy đã đước cải tạo so với trước đây: Đã giải quyết được nhiều yếu kém về phân bố đất, quy hoạch đất, sử dụng đất, đã giải quyết được nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo… nhưng vẫn tồn tại những bất cập lớn: Vẫn còn tình trạng quy hoạch “Treo” gây ra đất bỏ hoang, lãng phí tài nguyên đất, tồn tiền của của nhà nước, vẫn còn khiếu nại của người dân về cách giải quyết sai phạm của những công chức có quyền để thu lợi cho các nhân, còn nhiều cán bộ chưa có đủ trình độ học vấn, năng lực. các điều luật còn chồng chéo, thủ tục rườm rà… và đó cũng chính là nguyên nhân làm kìm hãm sự phát triển của các ngành nông nghiệp,công nghiệp, dịch vụ: Phân bố đất nông nghiệp không hợp lý cho từng loại cây trồng làm giảm năng suất, chất lượng, sản phẩm của cây trồng; Phân bố không hợp lý cho xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ làm không phát huy được hết sức sản xuất của máy, tăng chi phi phục vụ cho sản xuất, ngành dịch vụ thu được lợi nhuận thấp… do đó lợi nhuận phát triển kinh tế không cao, nền kinh tế chưa phát huy đước hết tiềm năng phát triển. Mặt khác dân số ngày càng tăng, nhu cầu đất ở lên cao do vậy QHSDĐ không chỉ cần thiết cho quản lý và sử dụng đất trước đây mà ngày nay nó càng quan trọng, QHSDĐ đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao là một mục tiêu thiết yếu, là cơ sở, nền tảng cho một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh. Đảng và nhà nước ta đã nhận định được tầm quan trọng đó nên QHSDĐ là một trong các nội dung về quản lý đất đai của nhà nước, được quy định rõ tại Điều 6 - Luật đất đai 2003.
Điều 18- Hiến pháp 1992 đã quy định:
“Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”;
1.2 Mục đích, yêu cầu
1.2.1 Mục đích
Đứng trước thực trạng sử dụng đất của xã Trường Yên giai đoạn 2003 -2007. QHSDĐ giai đoạn 2007 - 2015 được đề ra với mục đích:
- Định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn xã có hướng phát triển phù hợp với QHSDĐ của toàn huyện, của tỉnh và QHSDĐ của cả nước
- Đáp ứng thích hợp nhất cho các ngành, các hộ gia đình và các tổ chức theo yêu cầu của sự phát triển.
- Xác định sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý đất đai ở địa phương
- Là cơ sở tiến hành giao đất, cấp đất, cải tạo đất và đầu tư vào phát triển sản xuất. Hạn chế sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất Nông Nghiệp sang đất Phi Nông Nghiệp
- Đảm bảo sử dụng dất sử dụng dất đầy đủ hiệu quả cao, hợp lý trên cơ sở bảo vệ đất, môi trường và phát triển kinh tế toàn diện, ổn dịnh, bền vững
- Hình thành hệ thống dữ liệu về đất đai phục vụ cho công tác quản lý đất đai một cách khoa học
1.2.2 Yêu cầu
- Phải có khả năng thực thi cao, đáp ứng được nhi cầu sử dụng, đảm bảo sự phát triển toàn diện về kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả nhất trên địa bàn phường
- Phải xác định được vị trí, mục đích sử dụng các loại đất của xã nhằm đảm bảo được cân đối trong việc phân bố đất đai
- Đánh giá đúng số liệu hiện trạng đảm bảo tính khách quan.
- Đảm bảo đúng chính sách pháp luật
Như vậy trước thực trạng sử dụng đất của xã, thì việc đưa ra một QHSDĐ hợp lý, có hiệu quả là một yêu cầu cấp thiết. Nó đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển toàn diện của xã.
Phần thứ hai.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
2.1. Cơ sở lý luận của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1. Khái niệm của QHSDĐ
Về mặt thuật ngữ: “Quy hoạch” là việc xác định một trật tự bằng những hoạt động như: Phân bố, bố trí , sắp xếp, tổ chức. Trong khi đó “Đất đai” là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, là một phần lãnh thổ có vị trí, hình thể, diện tích xác định đồng thời đó là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là thành phần quan trọng nhất của môi trường sống, là TLSX không gì có thể thay thế được đặc biệt là đối với nông nghiệp do đó vấn đề cấp bách cần đặt ra là: Làm thế nào để sử dụng đất đúng mục đích, đầy đủ,hợp lý và có hiệu quả cao, tránh lãng phí nguồn tài nguyên đất đai.Quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) ra đời đã đưa ra những định hướng đúng đắn để giải quyết vấn đề cấp bách đó.
QHSDĐ là một hoạt động vừa mang tính kỹ thuật, kinh tế vừa mang tính pháp chế trong đó biểu hiện của tính kỹ thuật là ở chỗ đất đai được đo đạc, vẽ thành bản đồ, tính toán và thống kê diện tích, thiết kế phân chia khoảnh thửa để giao cho các mục đích sử dụng khác nhau. Về mặt kinh tế thì nó biểu hiện trong việc xác định rõ mục đích sử dụng đất của chủ sử dụng đất sao cho khai thác được triệt để và có hiệu quả cao tiềm năng đất còn về mặt pháp lý, đất đai được nhà nước giao cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng vào các mục đích khác nhau bên cạnh đó nhà nước ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh các mối quan hệ đất đai, các đối tượng sử dụng đất có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách về đất đai của nhà nước. cả ba đặc tính này của QHSDĐ phải luôn được tiến hành đồng bộ, đặc biệt tính kinh tế chỉ được thực hiện khi tiến hành đồng bộ với các biện pháp kinh tế và pháp chế.
Từ đó có thể rút ra khái niệm QHSDĐ như sau:
QHSDĐ là một biện pháp kinh tế, kỹ thuật, và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử sụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất cả nước, tổ chức sử dụng đất như một TLSX cùng với TLSX khác gắn liền với đất nhằm năng cao hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và môi trường.
2.1.2. Phân loại quy hoạch sử dụng đất
Do sự phát triển của nền kinh tế của từng vùng, từng lãnh thổ, từng địa điểm khác nhau…và có sự khác biệt trong tính chất đất phân bố trên mỗi địa điểm đòi hỏi phải có QHSDĐ phù hợp với mỗi vùng, lãnh thổ khác nhau. Ở phạm vi quy hoạch càng hẹp thì quy hoạch cần phải chi tiết, cụ thể và phù hợp với những quy hoạch tổng quát hơn và ở phạm vi quy hoạch càng rộng thì đòi hỏi quy hoạch cần tổng quát hơn, đòi hỏi tầm nhìn chiến lược càng cao. Nhằm đạt được mục đích QHSDĐ tốt, đồng thời đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất cho các nghành, các chủ sử dụng đất Luật đất đai 2003 ra đời đã phân QHSDĐ ở Việt Nam thành 4 cấp:
QHSDĐ cả nước
QHSDĐ cấp tỉnh (Bao gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương )
QHSDĐ cấp huyện ( Bao gồm quận, huyên, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh )
- QHSDĐ cấp xã ( Thị trấn, phường )
Trong đó QHSDĐ cả nước, QHSDĐ cấp tỉnh là quy hoạch mang tính tổng thể cần có tầm nhìn rộng, phù hợp, mang tính chiến lược lâu dài và QHSDĐ cấp xã, cấp huyện là quy hoạch ở cấp vi mô, những quy hoạch ở 2 cấp này là quy hoạch chi tiết, cụ thể, phù hợp với khả năng phát triển kinh tế xã hội của xã, huyện đó, phải phù hợp cho thời hạn trước mắt.
Để phù hợp với thực tế hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam các nhà quy hoạch còn phân loại quy hoạch sử dụng đất riêng đối với đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh:
QHSDĐ của Bộ Quốc Phòng
QHSDĐ của Bộ Công An
2.1.3. Đối tượng nghiên cứu của QHSDĐ
Đối tượng của QHSDĐ rất rộng: Bao gồm các vấn đề liên quan đến đất.Ta có thể phân thành 2 nhóm đối tượng như sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu các quy luật về chức năng của đất như một tư liệu sản xuất chủ yếu đó là: Chức năng môi trường sống,chức năng sản xuất, chức năng cân bằng sinh thái, chức năng tàng trữ và cung cấp nguồn nước, chức năng dự trữ, chức năng không gian sự sống, chức năng bảo tồn bảo tàng lịch sử, chức năng vật mang sự sống. Từ đó giúp cho các nhà quy hoạch hiểu rõ hơn về đất đai vùng cần quy hoạch, là nền tảng để đưa ra quy hoạch đúng đắn.
Thứ hai: Đề xuất các biện pháp tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao kết hợp với bảo vệ đất và môi trường trong tất cả các ngành căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể của từng vùng, lãnh thổ.Đề xuất đưa ra phải thực tế, áp dụng phù hợp với điều kiện hiện trạng đất đai. Ví dụ như: Ở vùng đất có độ phì cao phù hợp với sản xuất nông nghiệp thì phải ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp và nếu cần thiết phải chuyển sang hình thức sử dụng khác thì phải có chính sách tăng diện tich đất nông nghiệp để bù trừ đất nông nghiệp đã chuyển sang mục đích sử dụng khác hoặc có chính sách bù trừ bằng tiền cho chủ sử dụng
2.1.4. Chức năng và nhiệm vụ của QHSDĐ
QHSDĐ có chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc quản lý và sử dụng tài nguyên đất. QHSDĐ được xem như là công cụ đắc lực nhằm phân phối và tái phân phối quỹ đất để quỹ đất được sử dụng đúng đắn, hợp lý và có hiệu quả cao. Nhiệm vụ đặt ra với QHSDĐ là: Phải tổ chức phân bố hợp lý lực lượng sản xuất trong từng vùng và trên phạm vi cả nước, đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của QHSDĐ để thực hiện được nhiệm vụ này QHSDĐ có thể giải quyết các vấn đề: Phân chia lại lãnh thổ, tổ chức sản xuất và lao động, bố trí lại mạng lưới điểm và dân cư, di chuyển dân cư, khai thác vùng đất mới, bố trí lại các xã nông trường, lâm trường thậm chí các tỉnh huyện…. Bên cạnh nhiệm vụ tổ chức sử dụng đất trong phạm vi ranh giới từng đơn vị sử dụng đất, QHSDĐ còn thực hiện nhiệm vụ phân phối, tái phân phối quỹ đất cho các ngành, các chủ sử dụng
2.1.5. Mối quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quản lý đất đai và các quy hoạch khác và phát triển kinh tế xã hội.
QHSDĐ có quan hệ chặt chẽ với nghành QLĐĐ và những ngành quy hoạch khác như: Quy hoạch phát triển Nông nghiệp,Quy hoạch tổng thể, Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn và phát triển KTXH.
Quan hệ giữa QHSDĐ với quản lý đất đai: QHSDĐ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình QLĐĐ. Với chức năng là đại diện chủ sở hữu nhà nước đã đưa ra những điều luật để QLĐĐ được chặt chẽ hơn…. QHSDĐ chính là công cụ chính để Nhà nước thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối quỹ đất nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng cho các ngành, các đơn vị sử dụng đất; QHSDĐ còn là công cụ để Nhà nước điều chỉnh mối quan hệ đất đai, thiết lập thể chế quản lý sử dụng tài nguyên, củng cố pháp chế XHCN.. Đó là công cụ không thể thiếu, là hành động trực tiếp, gián tiếp nhằm thực hiện tốt mục đích QLĐĐ của nhà nước: Để QLĐĐ tốt thì phải có những thể chế, điều luật đúng đắn, sát thực, phù hợp với phương thức sản xuất XHCN…; Phải có những quy hoạch vi mô phù hợp với quy hoạch vĩ mô để tránh sự chồng chéo, bất cập trong quá trình thực hiện. QLĐĐ tốt chính là yêu cầu là mục đích mà QHSDĐ hướng tới, mong muốn thực hiện được.
Quan hệ giữa QHSDĐ với Quy hoạch tổng thể: Khi QHSDĐ không phù hợp với quy hoạch tổng thể, chồng chéo, mâu thuẫn với quy hoạch tổng thể thì hai phương án quy hoạch không thể thực hiện được mà nếu thực hiện được thì hiệu quả thấp gây thiệt hại về vốn đầu tư, về kinh tế do phải chỉnh sửa quy hoạch, gây sáo trộn về xã hội do quy hoạch không đúng với điều kiện xã hội. QHSDĐ chỉ là một khía cạnh của quy hoạch tổng thể được cụ thể hóa, khía cạnh đó là đất đai, nên nội dung của sử dụng đất phải điều hòa với quy hoạch tổng thể.
QHSDĐ với Quy hoạch phát triển Nông nghiệp: Trong Nông Nghiệp đất là một TLSX đặc biệt không thể thiếu được do vậy quy hoạch nông nghiệp là một yếu tố tác động, làm thay đổi mạnh mẽ tới tài nguyên đất. QHPTNN là quy hoạch xuất phát từ nhu cầu của phát triển kinh tế xã hội đối với sản xuất nông nghiệp để xác định hướng đầu tư, biện pháp, bước đi về nhân lực, vật lực đảm bảo cho nghành Nông Nghiệp phát triển sản xuất đạt được chỉ tiêu về: đất đai, lao động, gia thành sản phẩm, chất lượng sản phẩm, số lượng sản phẩm…trong một thời gian dài ở một tỷ lệ nhất định. phải dựa trên quy hoạch và dự báo yêu cầu sử dụng đất của ngành Nông Nghiệp, tuy nhiên QHSDĐ chỉ có tác dụng chỉ dạo vĩ mô, khống chế và điều hòa QHPTNN sao cho QHPTNN đạt hiệu quả ngày càng cao, phát triển phù hợp với các quy hoạch đất khác nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất. QHSDĐ và QHPTNN có mối quan hệ mật thiết không thể thay thế lẫn nhau. Ví dụ: Khi muốn quy hoạch một vùng từ sản xuất Nông nghiệp sang sản xuất phi Nông nghiệp thì diện tích đât Nông nghiệp sẽ bị thu hẹp lại, khi yêu cầu của QHPTNN là giữ mức sản lượng sản phẩm nông nghiệp như cũ thì ta phải thay đổi phương thức sản xuất nông nghiệp ở vùng khác như: Thay đổi giống lúa, luân canh cây trồng, tăng vụ…
Quan hệ giữa QHSDĐ với Quy hoạch đô thị: QHDT được tiến hành nhằm xác định chiến lược dài hạn về vị trí, quy mô và cơ cấu sử dụng toàn bộ đất đai cũng như bố cục không gian trong khu vực đô thị. QHDT phải dựa trên cơ sở của QHSDĐ để điều hòa phù hợp với các quy hoạch đất khác, QHSDĐ tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và phát triển đô thị. QHSDĐ và QHDT có quan hệ diện và điểm, cục bộ và toàn bộ.
Quan hệ giữa QHSDĐ và Quy hoạch các ngành: Quan hệ giữa chúng là quan hệ ràng buộc, vừa thúc đẩy phát triển vừa hạn chế lẫn nhau. QHSDĐ có tính định hướng toàn diện và toàn cục cho sự phát triển của Quy hoạch ngành nhưng nó nó hạn chế về không gian và thời gian của các quy hoạch ngành. Mặt khác Quy hoạch ngành lại là cơ sở và bộ phận hợp thành của QHSDĐ, nó là những quy hoạch cụ thể, sự sắp xếp chiến thuật, cụ thể, cục bộ được đề ra dựa trên căn cứ QHSDĐ có sẵn.
Quan hệ giữa QHSDĐ cả nước với QHSDĐ của các địa phương: QHSDĐ cả nước và QHSDĐ của các địa phương hợp thành một hệ thống QHSDĐ hoàn chỉnh. Luật Đất Đai 2003 đã phân thành 4 cấp QHSDĐ: QHSDĐ cả nước – QHSDĐ cấp tỉnh – QHSDĐ cấp huyện – QHSDĐ cấp xã. QHSDĐ của các cấp có mối quan hệ qua lại với nhau: QHSDĐ cả nước là căn cứ cho QHSDĐ cấp tỉnh, QHSDĐ cấp tỉnh là căn cứ cho QHSDĐ cấp huyên, QHSDĐ cấp huyện là căn cứ cho QHSDĐ cấp xã. QHSDĐ cấp dưới là nền tảng bổ sung hoàn thiện QHSDĐ cấp trên. QHSDĐ cả nước, QHSDĐ cấp tỉnh là quy hoạch tổng thể, quy hoạch mang tính vĩ mô, cần có tính chiến lược cao, còn QHSDĐ cấp huyện, QHSDĐ cấp xã là QHSDĐ vi mô, quy hoạch mang tính chi tiết, cụ thể cần được vạch ra dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của từng vùng.
2.1.6. Trình tự, nội dung nghiên cứu QHSDĐ nói chung.
2.1.6.1 Trình tự QHSDĐ bao gồm bước sau
Bước 1:Công tác chuẩn bị và điều tra cơ bản
a) Công tác chuẩn bị:
Thành lập ban chỉ đạo xây dựng quy hoạch
Tổ chức lực lượng, phương tiện làm việc
Xây dựng luận chứng kinh tế-kỹ thuật và kế hoạch tiến hành
Thành lập hội đồng xét duyệt quy hoạch
b) Điều tra cơ bản: Tiến hành theo 2 giai đoạn:
Công tác nội nghiệp: Điều tra, thu thập số liệu, thông tin cần thiết phục vụ cho việc xây dựng các phương án quy hoạch ở bươc sau
Công tác ngoại nghiệp:Khảo sát ngoài thực địa nhằm bổ sung và chính xác hóa các thông tin thu thập được ở trong phòng
Bước 2: Xây dựng các phương án quy hoạch
Xây dựng đề cương nghiên cứu quy hoạch
Xây dựng chương trình điều hòa phối hợp nghiên cứu
Viết báo cáo tổng hợp thể hiện các kết quả nghiên cứu
Bước 3: Thẩm định và phê duyệt quy hoạch
Việc thẩm định và tiến hành quy hoạch được tiến hành theo trình tự sau:
Thông qua phương án QH ở Hội đồng nhân dân cấp làm QH. Nếu nhất trí thông qua, Hội đồng nhân dân sẽ ra nghị quyết về thông qua phương án quy hoạch.Căn cứ vào đó UBND cấp làm QH làm tờ trình lên UBND cấp trên trực tiếp để đề nghị việc phê duyệt QH trực tiếp. Kèm theo tờ trình làm toàn bộ hồ sơ QH và bản sao nghị quyêt của Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc thông qua QH
UBND cấp trên trực tiếp sẽ thành lập Hội đồng xét duyệt QH của UBND cấp dưới gửi lên. Để đảm bảo tính thống nhất với QH của cả nước, trước khi đưa ra xét duyệt, các phương án QH sử dụng đất cấp tỉnh có sự thẩm dịnh của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Các cơ quan chức năng như: Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan chuyên môn về Nông nghiệp, Giao thông , Thủy lợi, Xây dựng, Tài chính…cần tham gia để lập QH.
Sau khi phê duyệt , hồ sơ quy hoạch được sao làm nhiều bộ, lưu giữ tại UBND và cơ quan Tài nguyên và Môi trường cần làm QH để tổ chức thực hiện, tại UBND trên để theo dõi chỉ đạo, tại cơ quan chuyên môn ngành Tài nguyên và Môi trường cấp trên để quản lý và điều hành.
Bước 4: Kiểm tra và tổ chức chỉ đạo thực hiện
UBND cấp làm QH phải tổ chức chỉ đạo thực hiện. Hàng năm, UBND chỉ đạo các cơ quan chuyên môn lập kế