Đồ án Nghiên cứu công nghệ HSDPA

Trong thế kỷ 21, thế giới đã chứng kiến sự bùng nổ về nhu cầu truyền thông không dây cả về số lượng, chất lượng và các loại hình dịch vụ. Tuy nhiên, theo đánh giá thì công nghệ truyền thông không dây hiện thời vẫn còn quá chậm và không đáp ứng được các yêu cầu về dịch vụ mới đặc biệt là các dịch vụ truyền số liệu đa phương tiện. Điều này đòi hỏi các nhà khai thác phải có được công nghệ truyền thông không dây nhanh hơn và tốt hơn. Để đáp ứng yêu cầu đó, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 người ta đã tiến hành nghiên cứu, hoạch định hệ thống thông tin di động thế hệ ba. ITU-R đã tiến hành công tác tiêu chuẩn hóa cho hệ thống thông tin di động toàn cầu IMT-2000, còn ở châu Âu ETSI đã tiến hành tiêu chuẩn hóa phiên bản này với tên gọi là UMTS (Universal Mobile Telecommunnication System). Mục tiêu trước mắt là tăng tốc độ bit truyền từ 9.5Kbps lên 2Mbps. Công nghệ này sẽ nâng cao chất lượng thoại, và dịch vụ dữ liệu sẽ hỗ trợ truyền thông đa phương tiện đến các thiết bị không dây.

docx45 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2675 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu công nghệ HSDPA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 3 CÔNG NGHỆ TRUY NHẬP GÓI ĐƯỜNG XUỐNG TỐC ĐỘ CAO HSDPA 3.1. Giới thiệu chung. HSDPA là một công nghệ truyền tải dữ liệu theo phương thức mới. Đây được coi là sản phẩm của hệ thống thông tin di động 3.5G. Công nghệ này cho phép tải dữ liệu về các thiết bị di động với tốc độ tương đương với tốc độ đường truyền ADSL, vượt qua những cản trở cố hữu về tốc độ kết nối của một thiết bị di động thông thường. Đây là giải pháp mang tính đột phá về mặt công nghệ và được phát triển trên cơ sở của hệ thống 3G WCDMA. HSDPA có tốc độ truyền tải dữ liệu lên tối đa gấp 5 lần so với khi sử dụng công nghệ WCDMA. Về mặt lý thuyết, HSDPA có thể đạt tốc độ truyền tải dữ liệu lên tới 8-10 Mbps. HSDPA được phát triển dựa trên công nghệ WCDMA, sử dụng các phương pháp chuyển đổi và mã hóa dữ liệu khác. Nó tạo ra một kênh truyền dữ liệu bên trong WCDMA được gọi là HS-DSCH (High Speed Downlink Shared Channel), hay còn gọi là kênh chia sẻ đường xuống tốc độ cao. Kênh truyền tải này hoạt động hoàn toàn khác biệt so với các kênh thông thường và cho phép thực hiện tải dữ liệu với tốc độ vượt trội, và đây là một kênh chuyên dụng cho việc tải dữ liệu. Điều đó cũng có nghĩa là dữ liệu sẽ được truyền trực tiếp từ các Nút B đến thiết bị di động. Song quá trình ngược lại, tức là truyền dữ liệu từ các thiết bị di động đến một Nút B thì không thể thực hiện được khi sử dụng công nghệ HSDPA. Ngoài HS-DSCH, còn có 3 kênh truyền tải dữ liệu khác cũng được phát triển, gồm có HS-SCCH (High Speed Shared Control Channel – kênh điều khiển chia sẽ tốc độ cao), HS-DPCCH (High Speed Dedicated Physical Control Channel – kênh điều khiển vật lý dành riêng tốc độ cao) và HS-PDSCH (High Speed Downlink Shared Channel – kênh vật lý chia sẻ đường xuống tốc độ cao). Ngoài ra HSDPA còn sử dụng điều chế và mã hoá thích ứng (AMC - Adaptive Modulation and Coding), yêu cầu phát lại tự động linh hoạt (HARQ - Hybrid Automatic Repeat Request), và lập lịch gói (Packet Scheduling) nhanh. Những tính năng này được phối hợp chặt chẽ và cho phép thích ứng các tham số truyền dẫn theo mỗi khoảng thời gian TTI nhằm liên tục hiệu chỉnh sự thay đổi của chất lượng kênh vô tuyến. Trong năm 2007, một số lượng lớn các nhà cung cấp dịch vụ di động trên toàn thế giới đã bắt đầu bán các sản phẩm USB Modem có chức năng kết nối di động băng thông rộng. Ngoài ra, số lượng các trạm thu phát HSDPA trên mặt đất cũng tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu thu phát dữ liệu. Được giới thiệu là có “tốc độ lên tới 3.6 Mbit/giây”, song đây chỉ là con số có thể đạt được trong điều kiện lý tưởng. Do vậy, tốc độ đường truyền sẽ không nhanh như mong đợi, đặc biệt là trong điều kiện phòng kín. 3.2. Những cải tiến quang trọng của HSPDA so với WCDMA. Trong WCDMA, điều khiển công suất nhanh nhằm giữ ổn định chất lượng tín hiệu nhận được (Eb/No) bằng cách tăng công suất phát nhằm chống lại sự suy hao của tín hiệu thu được. Điều này sẽ tạo ra các giá trị đỉnh trong công suất phát và tăng nền nhiễu đa truy cập, do đó sẽ làm giảm dung lượng của toàn mạng. Hơn thế nữa, sự hoạt động của điều khiển công suất yêu cầu luôn luôn phải đảm bảo một mức dự trữ nhất định trong tổng công suất phát của Node B để thích ứng với các biến đổi của nó. Loại bỏ được điều khiển công suất sẽ tránh được các hiệu ứng tăng công suất kể trên cũng như không cần tới dự trữ công suất phát của tế bào. Tuy nhiên, do không sử dụng điều khiển công suất, HSDPA yêu cầu thay thế bằng cơ chế thích ứng nhanh (link adaption) để phù hợp với sự thay dổi thông số, điều kiện tín hiệu, kênh truyền lien tục trong những thời gian ngắn. Một trong những kỹ thuật liên kết thích ứng là điều chế và mã hoá thích ứng AMC được áp dụng để điều chỉnh tức thời chất lượng (công suất) kênh vô tuyến. Với kỹ thuật AMC, điều chế và tỉ lệ mã hoá được thích ứng một cách liên tục với chất lượng kênh thay cho việc hiệu chỉnh công suất. Truyền dẫn sử dụng nhiều mã Walsh cũng được sử dụng trong quá trình thích ứng liên kết. Sự kết hợp của hai kỹ thuật thích ứng liên kết trên đã thay thế hoàn toàn kỹ thuật hệ số trải phổ biến thiên trong WCDMA do khả năng thích ứng chậm đối với sự biến thiên của truyền dẫn vô tuyến tốc độ cao. Do HSDPA không còn sử dụng điều khiển công suất vòng kín, phải tối thiểu hoá sự thay đổi của chất lượng kênh vô tuyến trong mỗi khoảng thời gian TTI, vấn đề này được thực hiện nhờ việc giảm độ rộng của TTI từ 10 ms ở WCDMA xuống còn 2ms ở HSDPA. Với kỹ thuật HARQ được thêm vào, nó còn cho phép phát lại một cách nhanh nhất các block dữ liệu đã bị mất hoặc bị lỗi và khả năng kết hợp với thông tin mềm ở lần phát đầu tiên với các lần phát lại sau đó. Để thu thập được thông tin về thông tin chất lượng kênh hiện thời cho phép các kỹ thuật thích ứng liên kết và lập danh mục gói theo dõi giám sát một cách liên tục các điều khiển vô tuyến hiện tại của thuê bao di động, chức năng điều khiển MAC cho kênh sóng mang HS-DSCH được chuyển từ RNC sang node B. Thông tin nhanh nhất chất lượng kênh cho phép bảng danh mục gói PS phục vụ người dùng khi điều khiển kênh thuận lợi. Sự lập nhanh bản danh mục gói dữ liệu và chia sẻ thời gian tự nhiên của HS-DSCH cho phép đa dạng hình thức chọn đa người dùng hỗ trợ chủ yếu cho lưu lượng vào (hiệu suất) của cell. 3.3. Mô hình giao thức HSDPA. Kiến trúc giao thức lớp người dùng trong HSDPA được trình bày trên hình 3-3, kiến trúc này bao gồm các chức năng cơ bản của WCDMA R99 ngoại trừ chức năng lớp MAC-hs được xem như là một chức năng mới tại node B. MAC-hs thực hiện các kỹ thuật cơ bản phục vụ cho hoạt động của HSDPA. Giao thức RLC ngoài chức năng có bản trong WCDMA còn được sử dụng để phát lại các gói tin ở mức RLC khi quá trình phát lại HARQ không thể thực hiện được và trong trường hợp chuyển giao của người dùng HSDPA. Dưới sự điều khiển của RRC, MAC-hs thực hiện các chức năng cơ bản gồm điều khiển luồng dữ liệu, lập biểu ấn định kênh truyền cho người dùng, điều khiển phát lại HARQ và lựa chọn kết hợp tuyền tải kênh HS-DSCH. Trong quá trình hoạt động, node B và UE cần được cung cấp một số thông tin điều khiển cần thiết từ RNC khi thiết lập kết nối cũng như trong suốt quá trình hoạt động của người dùng HSDPA. Ngoài ra, RNC cũng cần xác định được khả năng hổ trợ HSDPA của UE khi thực hiện lập biểu như mã số định kênh HS-PDSCH có thể xử lý đồng thời, phương pháp điều chế hổ trợ (có hoặc không có điều chế 16QAM). Tất cả thông tin truyền giữa RNC và node B đều thông qua giao diện Iub theo các giải pháp khác nhau được đưa ra bởi các nhà sản xuất. Các thông tin này được chia ra các nhóm chính gồm: Thông tin về tài nguyên HSDPA (mã định kênh và công suất) được cấp phát cho node B, thông tin điều khiển bộ lập biểu node B và thông tin về khả năng hổ trợ hoạt động HSDPA của thiết bị đầu cuối. Các thông tin điều khiển bộ lập biểu gồm những thông tin quản lý chất lượng dịch vụ sử dụng khi lập biểu tại node B. Những dịch vụ khác nhau cũng như những người dùng khác nhau sẽ có mức ưu tiên lập biểu khác nhau. Chẳng hạn như các dịch vụ thời gian thực (VoIP, Video Streaming) sẽ có chỉ số ưu tiên cao hơn các dịch vụ không đòi hỏi thời gian thực (tải file, duyệt web). Do đó, tại node B cần được thiết lập với mức ưu tiên lập biểu cho từng dịch vụ. 3.4. Cấu trúc kênh. HSDPA sử dụng ba kênh vật lý mới bao gồm kênh điều khiển chia sẻ tốc độ cao (HS-SCCH – High Speed-Shared Control Channel), kênh vật lý điều khiển dành riêng tốc độ cao (HS-DPCCH – High Speed-Dedicated Physical Control Channel) và kênh vật lý chia sẻ đường xuống tốc độ cao (HS-PDSCH – High Speed-Phycical Downlink Shared Channel). Trong đó, kênh HS-SCCH là kênh điều khiển đường xuống, kênh HS-DPCCH là kênh điều khiển đường lên và kênh HS-PDSCH là kênh mang số liệu chính được chia sẻ giữa các người dùng trên đường xuống. Ngoài ba kênh vật lý trên, HSDPA đòi hỏi phải có ít nhất một kênh nối DCH (Gồm có DPCCH và DPDCH) hoạt động song công. Nếu dịch vụ cung cấp cho UE chỉ bao gồm dịch vụ số liệu thì kênh DCH mang các thông tin báo hiệu. Còn đối với trường hợp dịch vụ cho các UE là dịch vụ chuyển mạch kênh như thoại ARM hay thoại hình ảnh thì các dịch vụ này sẽ được phục vụ song công với HSDPA bằng các kênh DCH. 3.4.1. Kênh chia sẻ đường xuống tốc độ cao (HS-DSCH). Như đã đề cập ở trên, HSDPA sử dụng kênh chia sẻ đường xuống HS-DSCH để truyền tải dữ liệu cho người dùng HSDPA trong ô. Tại lớp vật lý, kênh SH-DSCH được sắp xếp lênh kênh HS-PDSCH. So với kênh truyền tải mang dữ liệu gói DCH trong R3, thì HS-DSCH có những khác biệt đó là. Kênh HS-DSCH không được điều khiển công suất mà thay vào đó là kỹ thuật thích ứng kênh truyền bằng cách điều khiển tốc độ thực hiện mã hoá và điều chế thích ứng AMC. Do được thích ứng kênh truyền bằng điều chế và mã hoá thích ứng nên quá trình xử lý tín hiệu trước khi phát luôn bám sát vào những thay đổi của điều kiện kênh truyền. Do đó, trong điều kiện môi trường thuận lợi, phương pháp điều chế bậc cao là 16QAM với 4 bit được mang trên mỗi ký hiệu có thể được được sử dụng. Khi chất lượng kênh truyền kém hơn, phương pháp điều chế QPSK được lựa chọn để điều chế tín hiệu. Ngoài ra kênh HS-PDSCH được trải phổ với hệ số trải phổ cố định là SF=16 (Tức là có 16 mã định kênh HS-PDSCH), trong đó các mã từ 1 đến 15 được sử dụng cho kênh HS-DSCH, mã còn lại dùng cho các mục đích khác như: Báo hiệu điều khiển hoặc phục vụ cho các dịch vụ đa phương tiện và quản bá đa phương tiện (MBMS – Multimedia Broadcast and Multimedi Services). Trong khi đó DCH có thể được trải phổ với SF từ 4 đến 512                                                                                                     Các kênh HS-DSCH được chia sẻ cho từng người dùng trong các khoản thời gian TTI, có thể là một TTI hoặc một vài TTI. Một người dung có thể được cấp phát một vài mã định kênh hoặc tất cả 15 mã định kênh trong một hoặc một vài TTI liên tiếp. Do đó, có thể xem hoạt động của HSDPA dựa trên nguyên lý phân chia theo mã (CDM – Code Division Multiplexing) kết hợp với ghép kênh phân chia theo thời gian (TDM – Time Division Multiplexing). Việc cấp phát động này được thực hiện nhờ bộ lập biểu tại node B, với TTI = 2ms, đảm bảo thời gian trễ trong HSDPA là thấp hơn nhiều so với WCDMA (TTI = 10ms). Bên cạnh đó, việc giảm TTI xuống còn 2ms giúp cho việc lập biểu ấn định kênh cho mỗi người dùng cũng như lựa chọn phương pháp mã hoá và điều chế trở nên linh hoạt hơn so vơi sự thay đổi nhanh của chất lượng kênh truyền. Kênh HS-PDSCH không được phát DTX ở mức độ khe, quá trình phát tín hiệu diễn ra liên tục trên toàn TTI. Ngoài ra, kênh HS-PDSCH cũng không có chế độ nén, do đó việc mã hoá kênh có thể thực hiện dễ dàng hơn so với kênh DCH. Cấu trúc khung của kênh HS-DSCH có độ dài 2ms phát trong một TTI và được chia thành ba khe thời gian. Mỗi khe thời gian có độ dài 2560 chips và (M*10*2k) bits, với k = 4 và M là số bit của mỗi kí hiệu điều chế, với điều chế QPSK thì M = 2 và với điều chế 16QAM thì M = 4. Bảng 3-1. Thông số kênh HS-DSCH. Khung #i  Tốc độ bit (Kbps)  Tốc độ ký hiệu (Ksps)  SF  Bit/khung  Bit/khe thời gian  Ndata   QPSK  480  240  16  960  320  320   16QAM  960  240  16  1920  640  640   Quá trình mã hoá kênh HS-DSCH gồm các các bước được trình bày như hình 3-8. Chức năng gán mã CRC có nhiệm vụ thêm mã CRC cho khối dữ liệu được phát trong mỗi TTI. Trong trường hợp này, mã CRC gán cho mỗi khối dữ liệu luôn có độ dài 24bit. Chức năng ngẫu nhiên hoá làm cho luồng bit trước khi mã hoá tăng thêm tính ngẫu nhiên nhằm tránh các chuỗi quá dài các bit “0” hay các bit “1”, điều này gây khó khăn cho việc đồng bộ tại đầu thu. Khi sử dụng 16QAM, mỗi kí hiệu điều chế sẽ có xác xuất lỗi khác nhau phụ thuộc vào vị trí của nó so với các ký hiệu mà cụ thể là hai trong số 4 bit của mỗi kí hiệu điều chế sẽ có độ tin cậy cao hơn so với hai bit còn lại. Trong khi đó các bit đầu ra của bộ mã hoá có mức độ quan trọng khác nhau nên các bit quang trọng này sẽ được sắp xếp vào vị trí của các bit có độ tin cậy cao trước khi được điều chế 16QAM. Tại đầu ra của bộ mã hoá Turbo gồm có các bit hệ thống (các bit thông tin) quan trọng hơn rất nhiều so với bit Parity. Do đó các bit hệ thống này được ưu tiên sắp xếp vào các vị trí thuận lợi. Quá trình sắp xếp lại các bit này chỉ được thực hiện khi sử dụng điều chế 16QAM, bởi vì các ký hiệu điều chế QPSK có xác xuất lỗi bằng nhau do khoảng cách giữa các ký hiệu là như nhau trên biểu đồ chòm mã. Trước khi sắp xếp lại các bit 16QAM, quá trình đan xen được thực hiện với các luồng bit đầu ra của bộ mã hoá. Có hai bộ đan xen được sử dụng cho kênh HS-DSCH. Bộ đan xen đầu tiên được sử dụng cho các luồng điều chế QPSK và các bit hệ thống của mã hoá Turbo trong trường họp điều chế 16QAM, bộ đan xen thứ hai được sử dụng vói các bit Parity đầu ra của bộ mã hoá turbo. Thực hiện đan xen trong HSDPA đơn giản hơn rất nhiều so với WCDMA R3 vì quá trình đan xen này thực hiện trong từng TTI riêng biệt. Quá trình sắp xếp các bit 16QAM được thực hiện dưới sự điều khiển bởi thông số chòm mã b, thông số chòm mã b nhận 4 giá trị gồm {0,1,2,3}. Ứng với mỗi giá trị là một các sắp xếp lại các bit 16QAM, thông số chòm mã này cũng được báo hiệu đến UE trên kênh điều khiển chia sẻ đường xuống HS-SCCH trước khi khối dữ liệu được phát đến người dùng. Bảng 3-2. Sắp xếp lại các bit 16QAM. Chuỗi bit đầu vào  X0  X1  X2  X3   Chuỗi bit đầu ra  b = 0  X0  X1  X2  X3    b = 1  X2  X3  X0  X1    b = 2  X0  X1  -X2  -X3    b = 3  X2  X3  -X0  -X1   HSDPA sử dụng mã hoá turbo cho kênh HS-DSCH, nguyên lý hoạt động của bộ mã hoá Turbo được trình trong hình 3-9.                                                                               Luồng bit đầu vào được chia làm ba nhánh song song. Trong đó nhánh thứ nhất không thể mã hoá được gọi là bit hệ thống, nhánh thứ hai mã hoá được gọi là các bit Parity 1 và 2. Như vậy, ta nhận thấy cứ mỗi bit sau khi được mã hoá Turbo sẽ được 3 bit đầu ra nên bộ mã hoá này có tốc độ R = 1/3. Ngoài ra, tốc độ mã hoá có thể được thay đổi bằng cách bỏ bớt đi một số bit ở các nhánh để được tốc độ mã hoá cao hơn, thao tác bỏ bớt bi này được gọi là đục lỗ. Với thao tác đục lỗ, tốc độ mã hoá của bộ mã hoá turbo có thể thay đổi được, như trong ví dụ minh hoạ sau khi tiến hành đục lỗ tốc độ mã hoá đã thay đổi từ 1/3 sang 3/4. Với khả năng thay đổi được tốc độ mã hoá đầu ra, mã hoá turbo được sử dụng như là một phương tiện để điều khiển tốc độ kênh trong cơ chế thích ứng đường truyền của HSDPA. Ngoài ra, với cùng một tốc độ mã hoá, mỗi cách đục lỗ sẽ cho một luồng bit đầu ra khác nhau. Các luồng bit đầu ra khác nhau này được gọi là các phiên bản phần dư của mã hoá turbo, các phần dư này được sử dụng trong cơ chế HARQ của HSDPA. Kênh HS-DSCH có thể được điều chế bằng phương pháp QPSK hoặc 16QAM. Điều chế QPSK chỉ cho phép mỗi ký hiệu điều chế mang được hai bit thông tin trong khi đó điều chế 16QAM mang bốn bit thông tin trên mỗi ký hiệu điều chế. Do đó phương pháp điều chế 16QAM cho phép truyền số liệu với tốc độ cao hơn. 3.4.2. Kênh chia sẻ điều khiển tốc độ cao HS-SCCH. Kênh HS-SCCH là một kênh vật lý chia sẻ đường xuống mang các thông tin điều khiển cần thiết cho một UE có thể thực hiện giải trải phổ, giải điều chế và giải mã kênh HS-DSCH. Trong mỗi 2ms (tương ứng với 1 TTI của kênh HS-DSCH), một kênh HS-SCCH thực hiện báo hiệu cho một UE riêng biệt. Bởi vì HSDPA hỗ trợ kênh HS-DSCH cho nhiều người dùng đồng thời theo nguyên lý ghép kênh phân chia theo mã – CDM (Code Division Multilplexing), do đó cần đến một vài kênh HS-SCCH trong một ô. Dựa theo các đặc tính kỹ thuật, trong một ô thường được cấu hình với 4 kênh HS-SCCH hoạt động đồng thời và UE cũng thường được hỗ trợ giám sát đồng thời 4 kênh HS-SCCH. Kênh HS-SCCH được trải phổ với hệ số SF = 128 và có cấu trúc mỗi khung con có độ dài 2ms, một khung HS-SCCH được chia thành 3 khe thời gian độ dài mỗi khe là 40 bit (tốc độ kênh HS-SCCH là 60Kbps). Các trường thông tin của gói HS-SCCH mang nội dung báo hiệu điều khiển khác nhau, tuỳ thuộc vào tuần tự sử dụng tại đầu thu, mà chúng được sắp xếp lên gói HS-SCCH theo thứ tự trước sau. Các thông tin cần cho mục đích giải trải phổ và giải điều chế phải cung cấp cho UE trước khi các gói tin HS-PDSCH đến, nên chúng phải được sếp ở đầu của gói tin. Trong khi các thông tin về kích thước gói và thông tin HARQ liên quan cần thiết cho quá trình giải mã và kết hợp chỉ được sử dụng khi UE nhận xong khối dữ liệu HS-DSCH trong 2ms, nên chúng được xếp ở phần sau của gói tin HS-SCCH. Cấu trúc gói tin HS-SCCH được chia thành 2 phần. Phần một bao gồm 8 bit trong đó có 7 bit báo hiệu về mã định kênh HS-PDSCH và 1 bit báo phương pháp điều chế được sử dụng cho kênh HS-DSCH. Trường chứa thông tin tập mã định kênh CCS áp dụng cho kênh HS-PDSCH gồm 7 bit: Xccs,1; Xccs,2; …; Xccs,7 được chia làm hai phần. Phần đầu gồm ba bit (có gí trị là A) báo hiệu cho UE biết tổng số mã định kênh được dùng cho kênh HS-PDSCH phát đến UE và phần còn lại gồm bốn bit (có giá trị là B) được dùng để chỉ ra vị trí bắt đầu của các mã được sử dụng trên cây mã định kênh. Có tất cả 15 mã định kênh có thể sử dụng đồng thời cho kênh HS-DSCH và vị trí của các mã theo thứ tự từ 1 đến 15. Bảng 3-3. Số và vị trí mã định kênh HS-DSCH được báo hiệu trên kênh HS-SCCH (số mã/vị trí) A B  0  1  2  3  4  5  6  7   0  1/1  2/1  3/1  4/1  5/1  6/1  7/1  X   1  1/2  2/2  3/2  4/2  5/2  6/2  7/2  X   2  1/3  2/3  3/3  4/3  5/3  6/3  7/3  X   3  1/4  2/4  3/4  4/4  5/4  6/4  7/4  X   4  1/5  2/5  3/5  4/5  5/5  6/5  7/5  X   5  1/6  2/6  3/6  4/6  5/6  6/6  7/6  X   6  1/7  2/7  3/7  4/7  5/7  6/2  7/7  X   7  1/8  2/8  3/8  4/8  5/8  6/8  7/8  X   8  1/9  2/9  3/9  4/9  5/9  6/9  7/9  8/8   9  1/10  2/10  3/10  4/10  5/10  6/10  9/7  8/7   10  1/11  2/11  3/11  4/11  5/11  10/6  9/6  8/6   11  1/12  2/12  3/12  4/12  11/5  10/5  9/5  8/5   12  1/13  2/13  3/13  12/4  11/4  10/4  9/4  8/4   13  1/14  2/14  13/3  12/3  11/3  10/3  9/3  8/3   14  1/15  14/2  13/2  12/2  11/2  10/2  9/2  8/2   15  15/1  14/1  13/1  12/1  11/1  10/1  9/1  8/1   HSPDA sử dụng hai phương pháp điều chế là QPSK và 16QAM, do đó với một bit Xms,1 có hai trạng thái có thể báo hiệu cho UE biết được phương pháp điều chế nào đã được sử dụng. Nếu kênh HS-DSCH được điều chế QPSK thì Xms,1 = 0 và nếu 16QAM được sử dụng thì Xms,1 = 1. Phần hai bao gồm các thông tin về kích thước khối truyền tải trong TTI (6 bit), chỉ số tiến trình HARQ phục vụ cho quá trình phát lại (3 bit), phiên bản phần dư (3 bit), cờ chỉ thị dữ liệu mới (1 bit) và mã nhận dạng UE (16 bit). HSDPA sử dụng phương pháp thích ứng kênh truyền bằng mã hoá và điều chế thích ứng – AMC, vì vậy trong một TTI, khối dữ liệu được phát đi có kích thước khác nhau do chúng được điều chế và mã hoá bằng các phương pháp khác nhau. Ngoài ra, số mã định kênh được ấn định cho một UE xác định trong TTI đó cũng ảnh hưởng đến kích thước khối dữ liệu được phát. Các bit thông tin về kích thước khối truyền tải sẽ được phát trên kênh HS-PDSCH gồm bit Xtbs,1; Xtbs,2; Xtbs,3;….; Xtbs,6. Việc biết trước kích thước khối dữ liệu sẽ được nhận giúp cho UE có thể cấu hình bộ đệm để lưu trữ và t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx7 - Chuong 3.docx
  • docx4 - Muc luc.docx
  • docx5 - Chuong 1.docx
  • docx6 - Chuong 2.docx
  • docx8 - Chuong 4.docx