1.1 Đặt vấn đề
Những năm trước đây, Việt Nam chúng ta là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, các sản xuất trong nước chủ yếu dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp, số lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp chiếm trên 80% tổng số lao động trong cả nước. Hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp mang tính thời vụ nên hiệu suất sử dụng thời gian lao động rất thấp, thông thường chỉ tập trung vào khoảng 3 đến 4 tháng trong một năm nên thời gian nhàn rỗi khá nhiều, thu nhập bình quân tính theo đầu người rất thấp. Hơn nữa sản xuất nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng thấp trong nền kinh tế, không tương ứng với tỷ lệ lao động. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhà nước ta đã tập trung hơn vào đầu tư phát triển các lĩnh vực: Công nghiệp, du lịch, thương mại và dịch vụ. Nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc. Các nhà máy, các khu công nghiệp được xây dựng và thu hút được rất nhiều lao động nhàn rỗi từ nông thôn, làm giảm đáng kể số lao động phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, làm tăng thu nhập, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên sản xuất nông lâm nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên và sức lao động dồi dào nên đã thu được những kết quả vượt bậc.
Sản xuất trong lĩnh vực nông lâm nghiệp là một quá trình sản xuất đặc thù, nó mang tính độc lập cao, điều kiện sản xuất phức tạp, tiêu tốn nhiều sức lao động. Để nâng cao năng suất, giảm nhẹ sức lao động cho các khâu sản xuất trong sản xuất nông lâm nghiệp cần thiết phải áp dụng cơ giới hoá tổng hợp và sử dụng các phương tiện hữu ích, áp dụng các hệ thống máy móc phù hợp với từng loại sản xuất, từng mục đích công việc.
Hiện nay việc thiết kế và phát triển các loại máy phức hợp tự hành đang diễn ra hết sức sôi động trong lĩnh vực cơ khí hoá nông lâm nghiệp ở nước ta. Xu hướng thiết kế chủ yếu là bố trí các bộ phân làm việc, dẫn động cho các bộ phận làm việc chủ động trên một máy kéo vạn năng cỡ nhỏ hoặc là thiết kế các máy phức hợp chuyên biệt cho các công việc nông lâm nghiệp như gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch
Trên đa số các mẫu máy đã được công bố: Các máy làm đất, máy thu hoạch, . việc truyền động trích công suất được thực hiện bằng cơ học như truyền động xích, truyền động đai, truyền động các đăng hoặc truyền động bánh răng Nhược điểm của truyền động cơ học là việc thay đổi tỷ số truyền vô cấp chỉ có thể thực hiện trong khoảng giới hạn và yêu cầu một không gian lắp đặt cố định giữa động cơ truyền lực và bộ phận làm việc cần dẫn động.
Các nhược điểm của này có thể được cải thiện đáng kể nếu thay thế truyền động cơ học bằng một hệ thống truyền động và điều khiển thủy lực. Các hệ thống truyền động thủy lực ngày nay có mật độ công suất và độ tin cậy cao, cấu trúc hệ thống đơn giản, đặc biệt là có khả năng thiết lập một hệ thống truyền động và điều khiển bất kỳ, linh động trong không gian với các phần tử cấu trúc tiêu chuẩn .
Một số kết quả bước đầu về ứng dụng truyền động thuỷ lực trong nông lâm nghiệp đã được công bố: Hệ thống truyền động trợ giúp thuỷ lực trên liên hợp máy vận chuyển nông lâm nghiệp, Liên hợp máy đào hố trồng cây. (Một phần của nhánh đề tài cấp nhà nước KC 07-18-01). Bài báo này giới thiệu kết quả phân tích lựa chọn hệ thống mạch điều khiển và truyền động thuỷ lực đáp ứng yêu cầu hoạt động của các bộ phận làm việc chủ động trên một số máy nông lâm nghiệp tự hành thường gặp.
Việc chuẩn bị đất nói chung và tạo hố để trồng cây trong lâm nghiệp nói riêng là một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản xuất. Công việc tạo hố trước khi trồng cây trong lâm nghiệp thường được làm thủ công nên mất nhiều thời gian và năng suất thấp. Mặt khác các cây lâm nghiệp thường trồng ở những nơi có địa hình phức tạp, mặt đồi dốc và trên mặt đất cứng. Việc đào hố sẽ gây ra nhiệt ở các hệ thống, ở dầu thủy lực, nghiên cứu và tìm hiểu sự làm mát cho dầu thủy lực cũng là yếu tố để đảm bảo cho các hệ thống làm việc tốt cũng như góp phần vào làm tăng năng suất làm việc vì vậy tôi đã thực hiện đề tài: "Nghiên cứu tính toán nhiệt trên hệ thống truyền động thủy lực của máy đào hố hai hàng".
1.2 Mục tiêu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu
Nghiên cứu và phân tích các yếu tố trong thực tiễn hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp ở Việt Nam và ưu nhược điểm của hệ thống thuỷ lực từ đó tính toán lựa chọn hệ thống máy thuỷ lực đào hố hai hàng lắp trên máy kéo tự hành và tính toán nhiệt cho hệ thống truyền động thủy lực máy đào hố hai hàng.
1.2.1 Yêu cầu
Lựa chọn loại máy phù hợp;
Tính toán cân bằng nhiệt trong hệ thống truyền động thủy lực;
Tính toán thiết kế hệ thống làm mát dầu thủy lực nếu cần phải làm mát;
1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Xây dựng cơ sở cho việc ứng dụng truyền động thuỷ lực vào trong sản xuất nông lâm nghiệp với điều kiện thực tiễn ở nước ta.
Đưa vào công tác sản xuất nông lâm nghiệp hệ thống máy đào hố hai hàng truyền động bằng thuỷ lực để tăng năng suất và hiệu quả của quá trình sản xuất.
74 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Nghiên cứu tính toán nhiệt trên hệ thống truyền động thủy lực của máy đào hố hai hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I - MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Những năm trước đây, Việt Nam chúng ta là một nước có nền kinh tế chậm phát triển, các sản xuất trong nước chủ yếu dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp, số lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp chiếm trên 80% tổng số lao động trong cả nước. Hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp mang tính thời vụ nên hiệu suất sử dụng thời gian lao động rất thấp, thông thường chỉ tập trung vào khoảng 3 đến 4 tháng trong một năm nên thời gian nhàn rỗi khá nhiều, thu nhập bình quân tính theo đầu người rất thấp. Hơn nữa sản xuất nông lâm nghiệp chiếm tỷ trọng thấp trong nền kinh tế, không tương ứng với tỷ lệ lao động. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhà nước ta đã tập trung hơn vào đầu tư phát triển các lĩnh vực: Công nghiệp, du lịch, thương mại và dịch vụ. Nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc. Các nhà máy, các khu công nghiệp được xây dựng và thu hút được rất nhiều lao động nhàn rỗi từ nông thôn, làm giảm đáng kể số lao động phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, làm tăng thu nhập, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên sản xuất nông lâm nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên và sức lao động dồi dào nên đã thu được những kết quả vượt bậc.
Sản xuất trong lĩnh vực nông lâm nghiệp là một quá trình sản xuất đặc thù, nó mang tính độc lập cao, điều kiện sản xuất phức tạp, tiêu tốn nhiều sức lao động. Để nâng cao năng suất, giảm nhẹ sức lao động cho các khâu sản xuất trong sản xuất nông lâm nghiệp cần thiết phải áp dụng cơ giới hoá tổng hợp và sử dụng các phương tiện hữu ích, áp dụng các hệ thống máy móc phù hợp với từng loại sản xuất, từng mục đích công việc.
Hiện nay việc thiết kế và phát triển các loại máy phức hợp tự hành đang diễn ra hết sức sôi động trong lĩnh vực cơ khí hoá nông lâm nghiệp ở nước ta. Xu hướng thiết kế chủ yếu là bố trí các bộ phân làm việc, dẫn động cho các bộ phận làm việc chủ động trên một máy kéo vạn năng cỡ nhỏ hoặc là thiết kế các máy phức hợp chuyên biệt cho các công việc nông lâm nghiệp như gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch…
Trên đa số các mẫu máy đã được công bố: Các máy làm đất, máy thu hoạch,…. việc truyền động trích công suất được thực hiện bằng cơ học như truyền động xích, truyền động đai, truyền động các đăng hoặc truyền động bánh răng… Nhược điểm của truyền động cơ học là việc thay đổi tỷ số truyền vô cấp chỉ có thể thực hiện trong khoảng giới hạn và yêu cầu một không gian lắp đặt cố định giữa động cơ truyền lực và bộ phận làm việc cần dẫn động.
Các nhược điểm của này có thể được cải thiện đáng kể nếu thay thế truyền động cơ học bằng một hệ thống truyền động và điều khiển thủy lực. Các hệ thống truyền động thủy lực ngày nay có mật độ công suất và độ tin cậy cao, cấu trúc hệ thống đơn giản, đặc biệt là có khả năng thiết lập một hệ thống truyền động và điều khiển bất kỳ, linh động trong không gian với các phần tử cấu trúc tiêu chuẩn….
Một số kết quả bước đầu về ứng dụng truyền động thuỷ lực trong nông lâm nghiệp đã được công bố: Hệ thống truyền động trợ giúp thuỷ lực trên liên hợp máy vận chuyển nông lâm nghiệp, Liên hợp máy đào hố trồng cây.. (Một phần của nhánh đề tài cấp nhà nước KC 07-18-01). Bài báo này giới thiệu kết quả phân tích lựa chọn hệ thống mạch điều khiển và truyền động thuỷ lực đáp ứng yêu cầu hoạt động của các bộ phận làm việc chủ động trên một số máy nông lâm nghiệp tự hành thường gặp.
Việc chuẩn bị đất nói chung và tạo hố để trồng cây trong lâm nghiệp nói riêng là một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản xuất. Công việc tạo hố trước khi trồng cây trong lâm nghiệp thường được làm thủ công nên mất nhiều thời gian và năng suất thấp. Mặt khác các cây lâm nghiệp thường trồng ở những nơi có địa hình phức tạp, mặt đồi dốc và trên mặt đất cứng. Việc đào hố sẽ gây ra nhiệt ở các hệ thống, ở dầu thủy lực, nghiên cứu và tìm hiểu sự làm mát cho dầu thủy lực cũng là yếu tố để đảm bảo cho các hệ thống làm việc tốt cũng như góp phần vào làm tăng năng suất làm việc vì vậy tôi đã thực hiện đề tài: "Nghiên cứu tính toán nhiệt trên hệ thống truyền động thủy lực của máy đào hố hai hàng".
1.2 Mục tiêu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu
Nghiên cứu và phân tích các yếu tố trong thực tiễn hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp ở Việt Nam và ưu nhược điểm của hệ thống thuỷ lực từ đó tính toán lựa chọn hệ thống máy thuỷ lực đào hố hai hàng lắp trên máy kéo tự hành và tính toán nhiệt cho hệ thống truyền động thủy lực máy đào hố hai hàng.
1.2.1 Yêu cầu
Lựa chọn loại máy phù hợp;
Tính toán cân bằng nhiệt trong hệ thống truyền động thủy lực;
Tính toán thiết kế hệ thống làm mát dầu thủy lực nếu cần phải làm mát;
1.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Xây dựng cơ sở cho việc ứng dụng truyền động thuỷ lực vào trong sản xuất nông lâm nghiệp với điều kiện thực tiễn ở nước ta.
Đưa vào công tác sản xuất nông lâm nghiệp hệ thống máy đào hố hai hàng truyền động bằng thuỷ lực để tăng năng suất và hiệu quả của quá trình sản xuất.
PHẦN II - NỘI DUNG
CHƯƠNG I - TỔNG QUAN VỀ CÁC BỘ PHẬN LÀM VIỆC CHỦ ĐỘNG TRÊN MÁY NÔNG NGHIỆP TỰ HÀNH
Máy làm đất
Làm đất là khâu quan trọng trước tiên tốn nhiều năng lượng trong quá trình canh tác, làm đất với mục đích nâng cao độ phì nhiều của đất, tạo điều kiện thuật lợi cho cây trong sinh trưởng và phát triển tốt. Để thực hiện các yêu cầu của việc làm đất người ta dùng các loại công cụ và máy làm đất như máy cày, máy bừa, trục lăn, máy phay, bánh xe lồng đất…
1.1.1 Máy phay
Các loại máy như máy cày, máy bừa, trục lăn, bánh xe lồng đất không có các bộ phận làm việc chủ động. Các bộ phận làm việc của các loại máy này là nhờ vào chuyển động của máy kéo kéo các bộ phận làm việc trên mặt đồng từ đó làm tơi xốp đất theo yêu cầu nông học của các loại cây trồng.
Trong các máy làm đất chỉ có máy phay có bộ phận làm việc chủ động là trống phay. Máy phay đất có nhiều loại, có loại chuyên cho ruộng khô, có loại chuyên phay cho ruộng nước, lại có loại phay được cả trên ruộng khô và nước. Tùy theo đặc điểm, kích thước của thửa ruộng, tùy theo nguồn động lực mà có các loại máy phay cỡ nhỏ, cỡ lớn… Phay thường được liên kết động lực nhờ bộ phận treo, ngoài việc kéo phay chuyển động theo, nguồn động lực còn truyền cho các lưỡi phay quay để làm nhỏ, nhuyễn đất ở độ sâu cần thiết.
Những loại máy phay trên có cấu tạo tương tự như nhau. Bộ phận làm việc của phay là các lưỡi phay. Tùy theo loại đất, yêu cầu làm đất mà lưỡi phay có hình dáng cụ thể và các kích thước khác nhau. Lưỡi phay có phần cạnh sắc và phần chuôi cạnh sắc để cắt đất, cỏ cây, đảo trộn đất hất về phía sau, còn chuôi để lắp lưỡi vào trống phay.
Trục trống phay được tựa và quay vào trong 2 ổ đỡ lắp trên khung máy và được làm kín để tránh bụi đất, chuyển động của trục hoặc trống phay khi làm việc được truyền từ máy kéo đến qua trục các đăng, hộp xích hoặc bộ bánh răng. Trục phay hoặc trống phay được bọc bởi vỏ thép đủ bền ở phía trên và phía sau để đảm bảo an toàn cho người sử dụng, đồng thời vỏ bao, đặc biệt là phần bao phía sau còn có tác dụng chắn cục đất đập vào làm nó tơi vỡ thêm.
Để đảm bảo độ sâu phay đất và điều chỉnh khi cần người ta lắp vào khung máy những tấm trượt hoặc bánh xe. Để liên kết máy phay với máy kéo, người ta sử dụng bộ phận treo – treo ba điểm ở khung máy phay, hoặc lắp trục phay ăn khớp trực tiếp với hộp truyền động như ở máy kéo Bông Sen.
Nguyên tắc làm việc ở của máy phay
Khi phay đất lưỡi phay đi vào đất cắt đất thành từng cục, hất về phía sau làm tơi, nhuyễn đất. Lúc đó một điểm bất kì của lưỡi phay tham gia hai chuyển động một chuyển động tịnh tiến theo máy kéo và một chuyển động quay quanh trục phay.
Phân bố các lưỡi phay trên trống phải đảm bảo để những lực cản tác động lên phay tương đối ổn định nhằm đảm bảo độ bền cho lưỡi, trục phay và máy chuyển động ổn định. Muốn vậy lưỡi phay được phân bố theo đường xoắn ốc sao cho các lưỡi phay lần lượt đi vào cắt đất với những khoảng cách góc bằng nhau. Để đất không bị kẹt ở trống phay, khoảng cách góc giữa các lưỡi phay ở hai đĩa liên tiếp nhau cần đủ lớn.
Khi làm việc, trống phay quay nhờ mô men được trích từ động cơ qua trục thu công suất, trục các đăng, hộp giảm tốc và xích truyền động. Tốc độ quay của trống phay phụ thuộc vào tốc độ làm việc của máy, thông thường khoảng 180 - 200 vg/p; chiều sâu phay thường khoảng 8 - 12cm; bề rộng làm việc của máy phụ thuộc vào công suất của máy kéo, thường khoảng 1,2 - 2,4m. Để tăng năng suất của máy, người ta có thể thay đổi bề rộng làm việc, tuy nhiên nếu tăng chiều dài trục phay lên quá lớn sẽ khó đảm bảo độ bền cho trục vì phay thường được kết cấu là một trục liền và sử dụng kiểu truyền động một đầu hoặc truyền động giữa trục.
Hình 1.1. Sơ đồ truyền động máy phay đất
1- Trục các đăng; 2- Hộp giảm tốc; 3- Trục phay.
4- Xích truyền động, n = 180vg/p
1.1.2 Máy đào hố trồng cây
Máy đào hố được sử dụng để cơ giới hoá khâu làm đất trong trồng cây lâm nghiệp. Máy được kết cấu là một trục có các cánh đào được bố trí theo đường xoắn ốc (làm việc như một mũi khoan). Máy được lắp sau máy kéo nhờ cơ cấu treo và nâng hạ thuỷ lực. Khi làm việc, trục quay nhờ mô men được trích từ động cơ qua trục thu công suất, trục các đăng, hộp giảm tốc và xích truyền động. Tốc độ quay của trục đào phụ thuộc vào tốc độ làm việc của máy, thông thường khoảng 180 - 200 vg/p, chiều sâu của hố khoảng 25 - 35 cm. Để tăng năng suất của liên hợp máy, tuỳ theo công suất của máy kéo ta có thể bố trí 2 hoặc 4 bộ phận làm việc đồng thời với khoảng cách hố khoảng 1,2 - 1,4m, khoảng cách hàng là 1,8 - 2m. Tuy nhiên, việc sử dụng các bộ truyền động cơ khí để truyền động đồng thời sẽ gặp nhiều khó khăn. Hiện nay người ta đã chế tạo thành công máy đào hố sử dụng hệ thống truyền động thuỷ lực.
Trục các đăng;
Hộp giảm tốc
Xích truyền động;
Trục vít đào, n = 180vg/p
Hình 1.2. Sơ đồ truyền động máy đào hố trồng cây.
Máy gieo trồng chăm sóc
Các loại máy gieo trồng chăm sóc bao gồm: máy gieo hạt, máy trồng cây non, máy cấy, các loại máy bón phân, máy xới, máy phun thuốc... Trong các loại máy đó những máy như máy gieo hạt, máy trồng cây non và máy xới không có các bộ phận làm việc chủ động. Các bộ phận làm việc của máy này thường được nhận truyền động từ bánh xe máy gieo đối với máy gieo hoặc máy trồng cây non và bánh xe máy cấy đối với máy cấy. Việc truyền động như vậy đảm bảo cho lượng gieo cũng như khoảng cách các cây đối với máy trông cây non hay máy cấy đảm bảo. Các loại máy bón phân mới có những bộ phận làm việc chủ động nhận truyền động từ các nguồn động lực để thực hiện nhiệm vụ.
1.2.1 Máy bón phân
a. Máy bón phân hữu cơ
Máy bón phân hữu cơ thường lẫn với cỏ, rác, giữa phân với cỏ rác trộn không đều, độ ẩm phân lớn dễ bị dính bết. Các máy bón phân hữu cơ bao gồm: máy chuyển phân, máy tung phân chuồng, máy bón phân nước. Trong các loại máy này có máy tung phân chuồng là loại máy có bộ phận làm việc chủ động.
Máy tung phân chuồng thường để bón lót, rải đều khắp mặt đồng, có nhiều loại máy tung phân chuồng như HT1, HT2, PΠTM-2,0. Máy tung phân chuồng PΠTM-2,0 có nhiệm vụ chở phân đã được đánh tơi và tung phân rải đều trên mặt đồng. Khi không bón phân có thể tháo bộ phận tung phía sau ra khỏi máy, thùng đựng phân sẽ trở thành chiếc romoc để vận chuyển nông sản.
/
Hình 1.3. Sơ đồ làm việc của máy tung phân chuồng PΠTM-2,0
1 – Thùng chứa phân; 2 – Đai ốc căng xích; 3 – Trục thụ động;
4 – Xích cung cấp; 5 – Thanh gạt; 6 – Đáy thùng;
7 – Trục chủ động; 8, 9 – Các trục tung
Máy được móc sau máy kéo có trục trích công suất và lực kéo ở móc từ 0,9 ÷ 1,4 tấn.
Thùng đựng phân: hình khối chữ nhật phía dưới thành thùng có khe hở để xích tay gạt đi qua đưa phân ra ngoài. Phía thành sau để trống để đặt hai trục tung phân
Bộ phận cung cấp phân: có nhiêm vụ đưa phân từ trong thùng tới bộ phận tung, có cấu tạo là băng tryền xích gạt, gồm trục chủ động 7, trục thụ động 3, có ba dải xích 4 và các thanh gạt 5 nối giữa các dải xích. Nhánh làm việc nằm trên đáy thùng 6, bộ phận căng xích là ba bulông 2.
Bộ phận tung phân: gồm có trục 8 và 9 là trục thép rỗng, trên trục có hàn các cánh tung phân, nghiêng so với đừng tâm trục góc 450, sao cho phân tung ra hai phía làm tăng bề rộng làm việc cho máy và độ bón đều. Trục 8 và 9 quay cùng chiều, cánh trục trên hất phân ngược về thùng làm tơi phân và làm bằng mặt phân ở cửa ra, cánh trục dưới hất phân tung xuống ruộng.
Tốc độ quay của hai trục trong quá trình làm việc không đổi và bằng 180vg/phút.
/
Hình 1.4. Sơ đồ truyền động của máy tung phân chuồng
1- Trục các đăng; 2- Hộp giảm tốc; 3,7- Xích truyền động
4- Cơ cấu culít bánh cóc; 5- Trục xích tải; 6- Trục tung phân
Hệ thống truyền động cho xích cung cấp và trục tung từ trục trích công suất của máy kéo thông qua trục các đăng, hộp giảm tốc, các bánh răng nón trụ, một nhánh xích qua xích tới trục tung, một nhánh qua cơ cấu culit bánh có tới xích cung cấp phân.
b. Máy bón phân vô cơ
Máy bón phân vô cơ có cấu tạo chung bao gồm các bộ phận chính sau:
- Thùng đựng phân để chứa phân có sức chứa phù hợp với loại phân và mức bón. Vật liệu làm thùng có lớp sơn chống gỉ hoặc làm bằng vật liệu chống gỉ.
- Bộ phận làm tơi: có tác dụng làm tơi phân trước khi đưa vào bộ phận bón.
- Bộ phận bón phân gồm có các bộ phân cung cấp và tung phân, là bộ phận làm việc chính của máy, có nhiều loại, với nguyên tắc làm việc khác nhau.
- Hệ thống truyền động cho bộ phận khuấy động. Bộ phận bón phân thường nhận truyền động từ bánh xe của máy kéo hoặc máy bón phân để đảm bảo mật độ bón đều, có loại nhận truyền động từ trục thu công suất của máy kéo cho lực truyền lớn, song khi máy thay đổi tốc độ sẽ ảnh hưởng tới mật độ bón.
- Bộ phận điều chỉnh lượng phân bón.
Bộ phận bón phân là bộ phận làm việc chính của máy tung phân cũng là bộ phận làm việc chủ động của máy. Bộ phận bón phân nhận truyền động từ bánh xe của máy kéo hoặc máy bón phân để đám bảo mật độ bón đồng đều. Có loại nhận truyền động từ trục thu công suất của máy kéo cho lực truyền lớn, song khi máy kéo thay đổi tốc độ sẽ làm ảnh hưởng tới mật độ bón.
1 - Thùng chứa phân;
2 - Đĩa cung cấp;
3 - Cửa điều chỉnh
4 - Trục tung;
5 - Tấm chắn;
6 - Tấm rung;
7 - Tấm dẫn
Hình 1.5. Sơ đồ bộ phận làm việc loại trục tung
Bộ phận bón phân loại trục tung, có ở các máy tung phân CTƜ2,8; CTH2,8; CTT3,0. Thùng chứa phân 1 có khoét các lỗ hình bán nguyệt thông với đĩa cung cấp 2. Thành phía trước thùng có tấm làm tơi 6. Khi làm việc sẽ dịch chuyển qua lại làm tơi phân. Đĩa cung cấp 2 một nửa thông với thùng phân, một nửa nằm ngoài đáy thùng. Khi làm việc đĩa quay cung cấp phân từ thùng ra nửa ngoài qua cửa ra phân 3. Phía trên đĩa quay cung cấp là trục tung 4. Trên trục lắp các cụm cánh tung phẳng nghiêng 450 so với trục. Tốc độ quay của trục tung được tính toán sao cho phân tung ra đập vào tấm chắn 5 mà tơi ra. Điều chỉnh mức bón bằng cách thay đổi tốc độ quay của đĩa cung cấp và độ mở của các cửa ra phân. Tốc độ quay của đĩa cung cấp phải nhỏ hơn tốc độ tự chảy của phân.
/
Hình 1.6. Sơ đồ bộ phận làm việc loại đĩa tung
1 – Thùng chứa phân; 2 – Xích cung cấp;
3 – Cửa điều chỉnh; 4 – Cánh dẫn; 5 – Đĩa tung
Bộ phận bón phân loại đĩa tung là loại bộ phận bón phân hiện nay dùng khá phổ biến, có ở các máy PYM3; 1PMГ4; HPY0,5; PY4,0 của Liên Xô cũ. Thùng đựng phân 1 có đáy trước và sau có khe hở để xích cung cấp đi qua kéo phân ra cửa 3 theo máng dẫn 4 tới đĩa tung phân 5. Khi làm việc 2 đĩa tung quay theo chiều mũi tên, phân được văng ra ngoài nhờ lực ly tâm. Để phân văng xa hơn người ta hàn các đường gân trên đĩa.
Tuy vậy, khi có đường gân phân tung ra thành nhiều hình vành khăn đông tâm do vậy độ đồng đều giảm. Để phân tung ra tơi đều người ta tính toán tốc độ quay của đĩa cung cấp phù hợp. Trong suốt quá trình tung tốc độ quay của đĩa không đổi.
Để điều chỉnh lượng phân bón người ta thay đổi tốc độ xích cung cấp theo 2 cấp truyền và điều chỉnh độ mở của cửa 3 để đạt lượng phân bón theo yêu cầu. Bộ phận bón loại đĩa tung tùy mật độ đều của phân trên đồng còn hạn chế song có cấu trúc đơn giản năng suất cao nên được phổ biến rộng rãi trong sản xuất.
Hình 1.7. Sơ đồ truyền động máy tung phân hoá học
1.3 Máy thu hoạch
1.3.1 Máy gặt lúa
Yêu cầu kỹ thuật đối với máy gặt lúa:
Bộ phận cắt phải đảm bảo cắt không sót cây, không gây hao phí hạt (như cắt vào bông lúa, rơi vãi bông lúa đã cắt hoặc làm rụng hạt), cần thay đổi được chiều cao cắt dễ dàng.
Guồng gạt có thể điều chỉnh được vị trí (lên cao, xuống thấp, đẩy về phía trước, đẩy về phía sau) và số vòng quay một cách dễ dàng với các trạng thái đổ tự nhiên của cây lúa.
Tổng số hao phí hạt gây ra bởi máy gặt không vượt quá 2%.
Ở máy gặt bó, kích thước của bó lúa phải theo một quy cách nhất định. Lúa hất xuống ruộng phải tập trung thành từng đống.
Ở máy gặt hàng, lúa được xếp thành dải liên tục, bông không tiếp xúc với đất.
Các bộ phận máy làm việc vững chắc, an toàn. Trang bị của máy cần tiện lợi cho người sử dụng.
Cấu tạo chung nguyên tắc làm việc của các bộ phần lam việc chủ động trên máy gặt lúa:
Guồng gạt
Các máy gặt lúa làm việc với tốc độ tiến bình thường đều có trang bị guồng gạt. Đôi khi trên một số máy gặt cỡ nhỏ để đảm bảo gọn nhẹ có trang bị cơ cấu gạt lúa kiểu xích – tay gạt. Trên các máy gặt làm việc với tốc độ tiến cao thường không có guồng gạt. Nhiệm vụ của guồng gạt gồm: gạt lúa vào cho bộ phận cắt, giữ lúa để dao cắt và hất lúa đã cắt lên bộ phận vận chuyển lúa. Để thực hiện ba nhiệm vụ trên, guông gạt thường có các kiểu cấu trúc:
Guồng gạt thông thường, các cánh gạt được lắp cố định trên các tia guồng gạt, không thay đổi độ nghiêng.
Guồng gạt sai tâm, khác so với guồng gạt thông thường ở chỗ có thể thay đổi được độ nghiêng của các cánh gạt so với phương thẳng đứng, đồng thời ở mọi vị trí các cánh gạt luôn song song với nhau phụ thuộc vào trạng thái đổ của cây. Cấu trúc như thế sẽ thuận lợi khi guồng gạt làm việc với lúa đổ.
Guồng gạt có cấu tạo đặc biệt, tùy theo yêu cầu công việc, đòi hỏi phải tạo nên một kiểu guồng gạt đặc biệt có góc ngiêng của cánh gạt tuân theo một quy định đã định trước. Về cấu tạo bên ngoài cũng gần giống như guồng gạt thông thường, nhưng ở một phía của guồng gạt trang bị một đường lăn cố định. Con lăn trên tay quay của thanh lắp cánh gạt chuyển động trên đường lăn. Như vậy, ở những vị trí khác nhau cánh gạt sẽ có góc nghiêng khác nhau theo yêu cầu.
Bộ phận gạt cào trang bị trên máy gặt tự cào đống. Nó cũng hoàn thành những nhiệm vụ như guồng gạt nhưng nhiệm vụ thứ ba có thể thực hiện là hất lúa lên mâm chứa hoặc cào lúa từ mâm chứa xuống ruộng. Công việc cào lúa hoàn toàn tự động. Việc cào mau hay thưa tùy theo cách đặt cung răng của bộ phận điều khiển.
Những đặc điểm điều chỉnh của guồng gạt, tùy theo trạng thái của cây lúa, cần thực hiện các điều chỉnh của guồng gạt cho thích hợp để guồng gạt hoàn thành nhiệm vụ của nó:
Về tốc độ của guồng gạt: Vận tốc dài của một điểm trên cánh gạt phụ thuộc vào tốc độ tiến của máy. Để đảm bảo guồng gạt thực hiện tốt ba nhiệm vụ của nó thì vận tốc dài trên cánh gạt thường lớn hơn vận tốc tiến của máy. Nếu vận tốc dài của một điểm trên cánh gạt nhỏ hơn vận tốc tiến thì guồng gạt không thực hiện được nhiệm vụ gạt lúa vào bộ phận cắt; ngược lại nếu nó quá lớn so với vận tốc tiến của máy sẽ gây ra đập rụng hạt nhiều. Theo số liệu khảo nghiệm thì tỉ số giữa vận tốc dài của một điểm trên cánh gạt với vận tốc tiến của máy dao động trong khoảng:
Bộ phận cắt
Nhiệm vụ của bộ phận cắt là thực hiện việc cắt cây. Hiện nay có rất nhiều kiểu bộ phận cắt. Tùy theo yêu cầu của công việc và đặc điểm cấu trúc của từng máy, người ta lắp loại bộ phận cắt cho thích hợp. Phân loại bộ phận cắt theo nguyên tắc làm việc, ta có bộ phận cắt loại có đế tựa và loại không có đế tựa (tấm kê cắt). Bộ phận cắt loại có đế tựa chia ra bộ phận cắt có răng và dao, bộ phận cắt hai dao.
Cơ cấu truyền dẫn cho dao của bộ phận cắt. Để tạo nên chuyển động tịnh tiến qua lạ