Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo cơ chế này các doanh nghiệp phải tự tổ chức độc lập, tự tìm đối tác trong kinh doanh từ khâu mua đầu tư vào để sản xuất cho đến tiêu thụ hàng hóa do mình sản xuất ra. Chính vì vậy trong hệ thống mục tiêu của các doanh nghiệp thì lợi nhuận là mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất. Đây chính là nguyên lý của kinh doanh được áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực khác nhau. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp phải quản lý mọi hoạt động trong kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, chi phí lớn nhất là chi phí sản xuất sản phẩm nên công tác quản lý và thực hiện chi phí hiệu quả góp phần rất lớn trên con đường hướng tới mục tiêu của doanh nghiệp. Việc xem xét, phân tích chi phí sản xuất sản phẩm mà không ảnh hưởng tới số lượng và chất lượng sản phẩm là việc làm vô cùng cần thiết. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, trước sự phong phú về chủng loại, chất lượng của sản phẩm cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trên thị trường, mỗi doanh nghiệp muốn tìm được vị trí cho mình thì phải làm sao để sản phẩm của mình vừa đáp ứng được thị hiếu khách hàng vừa có giá cả phù hợp. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp không còn cách nào khác ngoài sự tự khẳng định mình, phải phấn đấu chiến thắng cạnh tranh. Muốn vậy các sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp phải đa dạng hóa, chất lượng cao, mẫu mã đẹp và giá thành rẻ.
Trong các chỉ tiêu đó, giá thành là một chỉ tiêu quan trọng mà các doanh nghiệp luôn phải quan tâm. Giá thành là cơ sở xác định giá bán của hàng hóa, giá bán lại có ảnh hưởng rất lớn tới số lượng sản phẩm bán được trên thị trường và giá thành là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác quản lý chi phí, phấn đấu tiết kiệm chi phí có ý nghĩa to lớn với việc tích lũy của doanh nghiệp, cải thiện đời sống người lao động, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên quốc gia. Đồng thời còn có tác dụng thúc đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt lượng vốn lưu động trong sản xuất và trong lưu thông tạo ra thế lực mới của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
Cũng như các doanh nghiệp khác, Xí nghiệp bao bì xuất khẩu trực thuộc công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đặt kế hoạch giá thành lên hàng đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của chi phí sản xuất kinh doanh đến giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất nên việc lập kế hoạch sản xuất nên việc lập kế hoạch sản xuất, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà công tác này vẫn còn hạn chế. Với ý nghĩa đó của giá thành và thực trạng giá thành ở Xí nghiệp bao bì xuất khẩu được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên TS. Phan Diệu Hương và các cán bộ công nhân viên Xí nghiệp, tôi đã tìm hiểu và hoàn thành đề tài
"Phân tích tình hình thực hiện giá thành kế hoạch và biện pháp hạ giá thành sản phẩm vải bò ở Xí nghiệp bao bì xuất khẩu trực thuộc công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu"
Kết cấu của đồ án, ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm 3 chương chính như sau:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TÍNH CHI PHÍ KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT BAO BÌ XUẤT KHẨU
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP HẠ GIÁ THÀNH ĐƠN VỊ SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP BAO BÌ XUẤT KHẨU
62 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 4637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phân tích tình hình thực hiện giá thành kế hoạch và biện pháp hạ giá thành sản phẩm vải bò ở xí nghiệp bao bì xuất khẩu trực thuộc công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Theo cơ chế này các doanh nghiệp phải tự tổ chức độc lập, tự tìm đối tác trong kinh doanh từ khâu mua đầu tư vào để sản xuất cho đến tiêu thụ hàng hóa do mình sản xuất ra. Chính vì vậy trong hệ thống mục tiêu của các doanh nghiệp thì lợi nhuận là mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất. Đây chính là nguyên lý của kinh doanh được áp dụng cho mọi loại hình doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực khác nhau. Để đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp phải quản lý mọi hoạt động trong kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, chi phí lớn nhất là chi phí sản xuất sản phẩm nên công tác quản lý và thực hiện chi phí hiệu quả góp phần rất lớn trên con đường hướng tới mục tiêu của doanh nghiệp. Việc xem xét, phân tích chi phí sản xuất sản phẩm mà không ảnh hưởng tới số lượng và chất lượng sản phẩm là việc làm vô cùng cần thiết. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, trước sự phong phú về chủng loại, chất lượng của sản phẩm cùng với sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trên thị trường, mỗi doanh nghiệp muốn tìm được vị trí cho mình thì phải làm sao để sản phẩm của mình vừa đáp ứng được thị hiếu khách hàng vừa có giá cả phù hợp. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp không còn cách nào khác ngoài sự tự khẳng định mình, phải phấn đấu chiến thắng cạnh tranh. Muốn vậy các sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp phải đa dạng hóa, chất lượng cao, mẫu mã đẹp và giá thành rẻ.
Trong các chỉ tiêu đó, giá thành là một chỉ tiêu quan trọng mà các doanh nghiệp luôn phải quan tâm. Giá thành là cơ sở xác định giá bán của hàng hóa, giá bán lại có ảnh hưởng rất lớn tới số lượng sản phẩm bán được trên thị trường và giá thành là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác quản lý chi phí, phấn đấu tiết kiệm chi phí có ý nghĩa to lớn với việc tích lũy của doanh nghiệp, cải thiện đời sống người lao động, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên quốc gia. Đồng thời còn có tác dụng thúc đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt lượng vốn lưu động trong sản xuất và trong lưu thông tạo ra thế lực mới của doanh nghiệp trong cạnh tranh.
Cũng như các doanh nghiệp khác, Xí nghiệp bao bì xuất khẩu trực thuộc công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đặt kế hoạch giá thành lên hàng đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của chi phí sản xuất kinh doanh đến giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất nên việc lập kế hoạch sản xuất nên việc lập kế hoạch sản xuất, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành được thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà công tác này vẫn còn hạn chế. Với ý nghĩa đó của giá thành và thực trạng giá thành ở Xí nghiệp bao bì xuất khẩu được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên TS. Phan Diệu Hương và các cán bộ công nhân viên Xí nghiệp, tôi đã tìm hiểu và hoàn thành đề tài
"Phân tích tình hình thực hiện giá thành kế hoạch và biện pháp hạ giá thành sản phẩm vải bò ở Xí nghiệp bao bì xuất khẩu trực thuộc công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu"
Kết cấu của đồ án, ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm 3 chương chính như sau:
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TÍNH CHI PHÍ KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP SẢN XUẤT BAO BÌ XUẤT KHẨU
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP HẠ GIÁ THÀNH ĐƠN VỊ SẢN PHẨM TẠI XÍ NGHIỆP BAO BÌ XUẤT KHẨU
Do thời gian có hạn và kiến thức còn những hạn chế nên bản đồ án của em không tránh khỏi những thiếu xót. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo cùng các cán bộ công nhân viên Xí nghiệp bao bì xuất khẩu để bản đồ án của em được hoàn thiện tốt hơn.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
Khái niệm chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời kỳ nhất định
Xét về bản chất, chi phí sản xuất kinh doanh là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là quá trình tiêu hao của 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và lao động sống. Để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh thì mọi chi phí phát sinh đều được biểu hiện bằng tiền và được hạch toán theo từng thời kỳ phù hợp với kỳ báo cáo. Như vậy, chi phí gắn liền với một thời kỳ, là đại lượng xác định, có thể đo lường tính toán.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí sản xuất ở doanh nghiệp gồm nhiều loại, mỗi loại có nội dung, công dụng, tính chất kinh tế khác nhau. Để đáp ứng yêu cầu quản lý thì chi phí sản xuất được phân loại tùy theo mục đích của người sử dụng.
Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục giá thành là sắp xếp những chi phí có công dụng giống nhau vào cùng một khoản mục chi phí. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm 3 khoản mục sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu... tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất.
Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất (trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp) như: chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, khấu hao TSCĐ, chi phí dịch mua ngoài...dùng cho phân xưởng.
Cách phân loại này giúp ta tính và thể hiện được giá thành sản phẩm theo khoản mục chi phí và phân tích tình hình thực hiện mục tiêu giảm từng khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Phân loại chi phí theo yếu tố
Theo cách phân loại này thì chi phí sản xuất phát sinh nếu có cùng nội dung kinh tế sẽ được sắp xếp vào một yếu tố bất kể nó phát sinh ở bộ phận nào, dùng để sản xuất ra sản phẩm. Theo quy định hiện hành, toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành 5 yếu tố sau:
Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ... mà doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi)
Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ số tiền lương, phụ cấp và các khoản trích trên tiền lương theo quy định (BHXH, BHYT, KPCĐ) của cán bộ công nhân viên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài như điện, nước...dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ chưa phản ánh ở 4 yếu tố trên.
Cách phân loại này giúp ta biết được những chi phí đã dùng vào sản xuất và tỷ trọng của từng loại chi phí đó là bao nhiêu, là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện chi phí sản xuất, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư, tiền vốn, huy động sử dụng lao động, xây dựng kế hoạch khấu hao TSCĐ...
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với sản lượng sản xuất hay công việc, lao vụ thực hiện trong kỳ
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất được chia ra:
Chi phí biến đổi (Biến phí): Là những chi phí mà tổng giá trị của nó thay đổi tỷ lệ với mức độ hoạt động của doanh nghiệp. Mức độ hoạt động có thể là số lượng sản phẩm, số giờ máy hoạt động, doanh thu bán hàng thực hiện...
Chi phí cố định (Định phí): Là những chi phí mà tổng giá trị của nó có tính ổn định tương đối hoặc thay đổi ít theo mức độ hoạt động của doanh nghiệp.
Cách phân loại này có ý nghĩa lớn đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hòa vốn và phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Phân loại chi phí theo mối quan hệ với đối tượng chịu chi phí
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất bao gồm:
Chi phí trực tiếp: Là những chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng kế toán tập hợp chi phí. Chúng ta có thể quy nạp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí căn cứ vào chứng từ ban đầu. Loại chi phí này thường chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí, chúng dễ nhận biết và hạch toán chính xác.
Chi phí gián tiếp: Là các loại chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí nên không thể quy nạp trực tiếp được mà phải tập hợp, quy nạp cho từng đối tượng theo tiêu chuẩn phù hợp.
Khái niệm và phân loại giá thành sản phẩm
Khái niệm về giá thành sản phẩm
Giá thành được định nghĩa là “toàn bộ hao phí về lao động vật hóa (nguyên vật liệu, động lực, khấu hao tài sản cố định và công cụ nhỏ) và lao động sống trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, quản lý kinh doanh, được tính bằng tiền cho một sản phẩm, một khối lượng công việc hoặc một dịch vụ sau một thời kỳ, thường là đến ngày cuối tháng”.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Trong hệ thống các chỉ tiêu quản lý của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế, kỹ thuật doanh nghiệp đã thực hiện nhằm mục đích sản xuất được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí ít nhất. Giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí liên quan đến khối lượng sản phẩm nhất định đã hoàn thành hoặc hoàn thành một số giai đoạn công nghệ (bán thành phẩm). Đối với mỗi loại sản phẩm sản xuất ra, nếu giá bán không đổi thì lợi nhuận thu được sẽ tỷ lệ nghịch với giá thành sản xuất sản phẩm đó.
Phân loại giá thành sản phẩm
Có các cách phân loại giá thành chủ yếu như sau:
Phân loại giá thành theo thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành
Theo cách phân loại này giá thành được chia ra:
Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xác định trước khi bắt đầu sản xuất của kỳ kế hoạch dựa trên cơ sở các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch và giá thành thực tế kỳ trước. Nó là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
Giá thành thực tế: Là giá thành được tính trên cơ sở các khoản chi phí thực tế phát sinh trong kỳ để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành thực tế được xác định sau khi đã xác định được kết quả sản xuất trong kỳ. Nó là căn cứ để kiểm tra, đánh giá tình hình tiết kiệm chi phí, hạn thấp giá thành và xác định kết quả kinh doanh.
Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo cách phân loại này, giá thành được chia ra:
Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng): Là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất, bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Giá thành sản xuất là căn cứ để xác định giá trị thành phẩm nhập kho hoặc gửi bán, đồng thời là căn cứ để xác định giá vốn hàng bán và lợi nhuận gộp trong kỳ của doanh nghiệp khi sản phẩm được tiêu thụ.
Giá thành toàn bộ: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành toàn bộ thực chất là giá thành sản xuất cộng với chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng. Nó chỉ được xác định khi sản phẩm, lao vụ đã xác định là tiêu thụ và là căc cứ để tính thu nhập trước thuế của doanh nghiệp.
Phân loại giá thành theo đối tượng tính giá thành
Theo cách phân loại này, giá thành được chia ra:
Giá thành đơn vị sản phẩm: Là giá thành tính cho một loại sản phẩm nhất định, theo một đơn vị nhất định. Giá thành đơn vị sản phẩm dùng để so sánh, đối chiếu giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế, hoặc giữa giá thành của doanh nghiệp với giá thành cùng loại sản phẩm của các doanh nghiệp khác trong kỳ. Trên cơ sở đó, tiến hành phân tích, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến giá thành và các biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Giá thành toàn bộ sản lượng: Là toàn bộ những chi phí bỏ ra đê tiến hành sản xuất, tiêu thụ tính cho toàn bộ sản lượng hàn hóa sản xuất trong kỳ. Giá thành toàn bộ sản lượng hàng hóa còn cho biết tỷ trọng của từng loại chi phí có trong giá thành, là căn cứ để phân tích, tìm ra biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Quá trình sản xuất là một quá tình thống nhất gồm 2 mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các khoản chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành tỏng kỳ sẽ tạo thành chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Như vậy, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền tất cả các khoản chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ. Khi nói đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thì đều giới hạn chúng ở một kỳ nhất định, tính cho một đại lượng kết quả hoàn thành nhất định.
Đứng trên góc độ quá trình hoạt động để xem xét thì quá trình sản xuất là một quá trình hoạt động liên tục, còn việc tính giá thành sản phẩm thực hiện tại một điểm cắt có tính chất chu kỳ để so sánh chi phí với khối lượng sản phẩm lao vụ, dịch vụ hoàn thành. Tại thời điểm tính giá thành có thể có một khối lượng sản phẩm chưa hoàn thành, chứa đựng một lượng chi phí cho nó là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Tương tự như vậy, đầu kỳ có thể có một khối lượng sản phẩm sản xuất chưa hoàn thành ở kỳ trước chuyển sang và một phần của chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể được biểu diễn qua công thức sau:
Tổng giá thành thực tế sản phẩm hoàn thành
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Các phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành kế hoạch
Như phần trên đã trình bày, giá thành kế hoạch là giá thành được xác định trước khi bắt đầu sản xuất của kỳ kế hoạch dựa trên cơ sở định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch và giá thành thực tế kỳ trước. Thông thường giá thành kế hoạch được xác định theo kỳ kế hoạch năm.
Để xác định giá thành kế hoạch, doanh nghiệp thường tính toán trên cơ sở sau:
Đối với các chi phí có định mức như nguyên vật liệu, năng lượng, nhân công, ...thì xác định theo định mức và đơn giá kế hoạch.
Đối với các chi phí không có định mức như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp...thì xác định theo dự toán bằng cách xem xét chi phí thực tế của kỳ trước và sử dụng hệ số biến động cho kỳ này.
Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để xem xét, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành trong từng thời kỳ, giúp cho doanh nghiệp xác định được nguyên nhân làm tăng (giảm) giá thành, từ đó có các quyết sách đúng đắn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm hoàn thành
Công thức tổng quát
Giá thành thực tế sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ được xác định như sau
𝒁=𝑪+
𝑫
𝒅𝒌
−
𝑫
𝒄𝒌
Giá thành đơn vị sản phẩm sẽ là :
𝑍
𝑑𝑣
=
𝑍
𝑄
Trong đó
+ Z: Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ của từng đối tượng tính giá thành;
+
𝒁
𝒅𝒗
:Giá thành đơn vị sản phẩm của từng đối tượng tính giá thành;
+ C: Tổng chi phí sản xuất trong kỳ
+
𝑫
𝒅𝒌
và
𝑫
𝒄𝒌
Lần lượt là chi phí sản phẩm dở dang đầu và cuối kỳ;
+ Q: Số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ
Trong trường hợp cuối kỳ không có sản phẩm dở dang hoặc có nhưng ít và ổn định thì tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ cũng đồng thời là tổng giá thành sản phẩm đã hoàn thành, khi đó Z=C
Như vậy, để tính được giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ, ngoài giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ (
𝐷
𝑑𝑘
) chính là giá trị dở dang cuối kỳ trước chuyển sang, cuối kỳ kế toán nhất thiết phải thực hiện được các công việc sau:
Tập hợp toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ (C) theo khoản mục và phân bổ (nếu cần) cho các đối tượng tính giá thành;
Kiểm kê và tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ (
𝐷
𝑑𝑘
)
Tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại với tính chất và nội dung khác nhau, phương pháp hạch toán và tính nhập chi phí vào giá thành sản phẩm cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí sản xuất được biểu hiện theo yếu tố chi phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục chi phí sản xuất kinh doanh.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời được. Trình tự này phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp, phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, phụ thuộc vào trình độ công tác quản lý và hạch toán của doanh nghiệp...Tuy nhiên, có thể khái quát chung việc tập hợp chi phí sản xuất qua các bước sau:
Bước 1: Tậphợp các chi phí cơ bản(nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp) có liên quan trực tiếp cho từng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất đã lựa chọn.
Bước 2: Tính toán và phân bổ lao vụ của các ngành sản xuất kinh doanh phù trợ cho từng đối tượng ử dụng trên cơ sở khối lượng lao vụ phục vụ và giá thành đơn vị lao vụ.
Bước 3: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các loại sản phẩm có liên quan.
Bước 4: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ, tính ra tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm.
Kiểm kê và tính giá thành sản phẩm dở dang cuối kỳ
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến, con đang nằm trong quá trình sản xuất. Cuối kỳ giá thành, doanh nghiệp cần phải kiểm kê nhằm xác định số lượng sản phẩm dở dang trong các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Trên cơ sở đó, xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Có các phương pháp tính giá trị sản phẩm dở dang sau:
Tính theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí vật liệu chính
Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí vật liệu chính. Còn các chi phí còn lại được tính hết cho sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Phương pháp này đơn giản, dễ tính toán nhưng không chính xác lắm và chấp nhận được trong trường hợp chi phí nguyên vật liệu chính chiếm tỷ trọng đáng kể trong giá thành.
Tính theo chi phí trực tiếp
Theo phương pháp này, chỉ tính vào giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ các chi phí trực tiếp, còn chi phí sản xuất chung tính hết cho sản phẩm hoàn thành. Như vậy, so với phương pháp trên chính xác hơn vì có tính thêm một phần chi phí chế biến.
Tính theo giá thành bán thành phẩm bước trước
Theo phương pháp này, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ ở giai đoạn 1 được tính theo chi phí nguyên vật liệu chính, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ ở giai đoạn 2 được tính theo giá thành bán thành phẩm bước 1 và cứ như vậy...giá trị sản phẩm dở dang bước n được tính theo giá thành bán thành phẩm bước (n-1). Nói cách khác, chi phí chế biến ở mỗi bước được tính hết vào giá thành sản phẩm hoàn thành của bước đó. Phương pháp này áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp có tính giá thànhcác loại bán thành phẩm.
Tính theo chi phí định mức hoặc kế hoạch
Theo phương pháp này, căn cứ vào định mức tiêu hao ( hoặc