Đồ án Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020

Giao thông vận tải là một ngành sản xuất vật chất có quy mô lớn, chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Trong đó gaio thông đường bộ chiếm phần chủ yếu và luôn được tập trung đầu tư phát triển hằng năm. Việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ tại nước ta nói chung và tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng được nhận định là phải đi trước một bước, tạo động lực phát triển cho những ngành sản xuất khác và nâng cao khả năng thu hút đầu tư. Nếu không có chiến lược phát triển đúng đắn, đây sẽ là nhân tố tạo nên cản trở, kìm hãm năng suất lao động xã hội cũng như sự phát triển kinh tế. Từ quan điểm chiến lược này, trong những năm qua hạ tầng giao thông đường bộ của vùng luôn được sự quan tâm đầu tư phát triển. Tuy nhiên, dù đã được tập trung đầu tư phát triển song thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của vùng. Với tình hình chung là nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, các nguồn lực còn hạn chế thì đầu tư như thế nào vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ để đảm bảo hiệu quả nền kinh tế và để tương xứng với nhu cầu phát triển của các đô thị trong vùng là một vấn đề bức xúc cần thiết phải nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu để hiểu rõ thực trạng và đưa ra giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là thực sự cần thiết và cấp bách. Do đó tôi đã lựa chon đề tài: “Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020”. Mục đích của tôi trong bài chuyên đề này: làm rõ thêm lý luận cơ bản về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; đánh giá thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (KCHT GTĐB) của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (KTTĐ BB), chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó; đưa ra những giải pháp để phát triển mạng lưới giao thông đường bộ của vùng đến năm 2020. Nội dung chính của bài chuyên đề này được trình bày thành 3 chương, bao gồm: - Chương I : Sự cần thiết phải phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị ở Việt Nam - Chương II : Hệ thống giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Chương III : Định hướng phát triển hệ thống giao thông đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020 và một số giải pháp

docx59 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3047 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Giao thông vận tải là một ngành sản xuất vật chất có quy mô lớn, chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Trong đó gaio thông đường bộ chiếm phần chủ yếu và luôn được tập trung đầu tư phát triển hằng năm. Việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ tại nước ta nói chung và tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng được nhận định là phải đi trước một bước, tạo động lực phát triển cho những ngành sản xuất khác và nâng cao khả năng thu hút đầu tư. Nếu không có chiến lược phát triển đúng đắn, đây sẽ là nhân tố tạo nên cản trở, kìm hãm năng suất lao động xã hội cũng như sự phát triển kinh tế. Từ quan điểm chiến lược này, trong những năm qua hạ tầng giao thông đường bộ của vùng luôn được sự quan tâm đầu tư phát triển. Tuy nhiên, dù đã được tập trung đầu tư phát triển song thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của vùng. Với tình hình chung là nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, các nguồn lực còn hạn chế thì đầu tư như thế nào vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ để đảm bảo hiệu quả nền kinh tế và để tương xứng với nhu cầu phát triển của các đô thị trong vùng là một vấn đề bức xúc cần thiết phải nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu để hiểu rõ thực trạng và đưa ra giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là thực sự cần thiết và cấp bách. Do đó tôi đã lựa chon đề tài: “Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020”. Mục đích của tôi trong bài chuyên đề này: làm rõ thêm lý luận cơ bản về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; đánh giá thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (KCHT GTĐB) của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (KTTĐ BB), chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó; đưa ra những giải pháp để phát triển mạng lưới giao thông đường bộ của vùng đến năm 2020. Nội dung chính của bài chuyên đề này được trình bày thành 3 chương, bao gồm: - Chương I : Sự cần thiết phải phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị ở Việt Nam - Chương II : Hệ thống giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Chương III : Định hướng phát triển hệ thống giao thông đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020 và một số giải pháp Chương I Sự cần thiết phải phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị ở Việt Nam I. Tổng quan về KCHT GTĐB 1. Khái niệm về KCHT GTĐB 1.1. Khái niệm chung về KCHT Kết cấu hạ tầng là tổng thể những hệ thống cấu trúc, thiết bị và các công trình vật chất - kỹ thuật được tạo lập và phát huy tác dụng trong mỗi quốc gia, khu vực hay vùng lãnh thổ, đóng vai trò là nền tảng và điều kiện chung cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cho quá trình sản xuất và nâng cao đời sống dân cư. Từ khái niệm này chúng ta có thể hiểu theo cách: - Theo nghĩa hẹp, kết cấu hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất thuộc lĩnh vực lưu thông, tức là bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng đảm bảo những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những nhu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội. Tuy nhiên quan niệm theo nghĩa hẹp không cho thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất. - Theo nghĩa rộng, kết cấu hạ tầng được hiểu là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện “bên ngoài” cho khu vực sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Tuy nhiên kết cấu hạ tầng theo nghĩa rộng không đồng nghĩa với phạm trù “môi trường kinh tế” ở chỗ kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển. Như vậy, kết cấu hạ tầng là tổng hợp các công trình vật chất - kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống nhân dân, được bố trí trên một phạm vi nhất định. 1.2. Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ Kết cấu giao thông vận tải theo nghĩa chung nhất là một bộ phận cấu thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật, bao gồm một hệ thống các công trình kiến trúc và các phương tiện vật chất - kỹ thuật mang tính nền móng cho sự phát triển ngành GTVT, có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao gồm: công trình và phương tiện của mạng lưới giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt, giao thông nông thôn và giao thông đô thị. Như vậy, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ chính là một bộ phận cấu thành nên kết cấu hạ tầng giao thông vận tải. Tại chương 3 của Luật giao thông đường bộ quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đã nêu rõ: điều 37: “Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ bao gồm công trình đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe và hành lang an toàn đường bộ. Mạng lưới đường bộ gồm quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường xã, đường đô thị và đường chuên dùng. Đường bộ được đặt tên hoặc số hiệu và phân thành các cấp đường.” 2. Hệ thống giao thông đường bộ - một bộ phận cần thiết của hệ thống giao thông. Ngành vận tải tiến hành nhờ những hình thức sau đây: vận tải thủy, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường bộ. - Vận tải thủy: gồm cả vận tải sông và vận tải biển. Ưu điểm chính của nó là tiết kiệm năng lượng vận chuyển. Tuy nhiên loại hình này phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốc độ vận chuyển chậm nên thường vận chuyển các loại hàng hóa cồng kềnh. - Vận tải hàng không: có ưu điểm là tốc độ cao (khoảng 900km/h) nên tiết kiệm thời gian vận chuyển. Ngày nay ngành vận tải hàng không thực sự phát triển do nhu cầu di chuyển với khoảng cách dài của người dân, đồng thời do đã có nhiều cải tiến về công nghệ nên đã giảm giá thành, an toàn tăng và rất tiện nghi. - Vận tải đường sắt: có tốc độ vận chuyển khá cao, giá cả hợp lý nên vận chuyển một số lượng hàng hóa và hành khách lớn. Trong thời gian qua, đường sắt ở nước ta không có sự phát triển đặc biệt nên vẫn chỉ chiếm khoảng 5% lượng vận chuyển. - Vận tải đường bộ: là một ngành dịch vụ sản xuất có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống kết cấu hạ tầng, là huyết mạch của quốc gia, là cầu nối giao lưu các hoạt động kinh tế - xã hội, đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Giao thông vận tải nói chung là sự kết hợp hữu cơ của kết cấu hạ tầng, phương tiện và tổ chức dịch vụ vận tải nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Vận tải đường bộ là một trong những loại hình giao thông vận tải mà sử dụng hệ thống các công trình tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt xã hội như: hệ thống các loại đường quốc lộ, đường đô thị, đường tỉnh lộ, đường huyện, đường xã, đường chuyên dùng, và hệ thống các loại cầu, bến bãi, đèn giao thông, đèn chiếu sáng... Tổng thể các công trình này được gọi là hệ thống giao thông đường bộ. Trong nền kinh tế quốc dân, vận tải là một ngành kinh tế đặc biệt và quan trọng. Nó có mục đích vận chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Trong quá trình sản xuất, nó không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hóa, tuy nhiên tầm quan trọng của nó dễ nhận thấy trong mọi ngành kinh tế. Nó cung cấp nguyên liêu, nhiên liệu cho mọi nhà máy; nó vận chuyển vật liệu xây dựng, máy móc để xậy dựng các nhà máy. Trong quá trình sản xuất, giao thông đường bộ cũng đảm nhiệm chức năng vận chuyển từ phân xưởng tới phân xưởng và kho bãi. Ngày nay khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu liên kết sản xuất giữa các quốc gia ngày càng tăng thì quá trình vận tải càng trở nên quan trọng, đặc biệt là vận tải đường bộ. Cuối cùng, khâu phân phối tới tay người tiêu dùng cũng lại phải nhờ tới vận tải đường bộ là chủ yếu. Có thể thấy rằng giao thông đường bộ là một bộ phận tất yếu quan trọng bởi những ưu điểm của nó so với các hình thức vận tải khác, cụ thể như: + Giao thông đường bộ có tính cơ động cao, có thể vận tải trực tiếp không cần qua các phương tiện vận tải trung gian. + Đường bộ đòi hỏi đầu tư ít vốn hơn đường sắt, có thể đi được đến những nơi địa hình hiểm trở. + Tốc độ vận tải khá lớn, nhanh hơn đường thủy, tương đương với đường sắt, về cự ly ngắn có thể cạnh tranh với hàng không. + Cước phí vận chuyển trên đường bộ rẻ hơn nhiều so với hàng không nên lượng hành khách và hàng hóa thường chiếm 80 - 90% về khối lượng hàng và 59 - 70% về khối lượng vận chuyển. Ở nước ta, con số này là 50% và gần 90%. 3. Đặc điểm của hệ thống GTĐB 3.1. Tính hệ thống, đồng bộ Tính hệ thống, tính đồng bộ là đặc trưng cơ bản của nhiều nhánh khác nhau trong quan hệ tổng thể. Tính hệ thống, tính đồng bộ thể hiện ở chỗ nếu một khâu nào trong toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ không được thiết kế xây dựng hay được thiết kế xây dựng không hợp lý, không tương thích với toàn bộ hệ thống thì sẽ ảnh hưởng đến quá trình vận hành chung của toàn hệ thống, thậm chí có thể gây ách tắc hoặc thiệt hại lớn. Tính hệ thống, tính đồng bộ không những chi phối toàn diện đến quy hoạch thiết kế, đầu tư thiết bị cho các công trình cụ thể mà còn liên quan đến cách thức tổ chức quản lý theo ngành, theo khu vực lãnh thổ. Chính đặc điểm này đã đòi hỏi khi lập quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cần phải xem xét đặt công trình giao thông trong tổng thể của toàn hệ thống, đảm bảo tính đồng bộ và hệ thống của toàn mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tránh tình trạng một vài mắt xích trong hệ thống không đảm bảo chất lượng gây ảnh hưởng xấu tới tổng thể. 3.2. Tính định hướng Đặc điểm này xuất phát từ chức năng của hệ thống giao thông đường bộ. Chức năng chủ yếu của giao thông đường bộ là thỏa mãn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân, tức là nó góp phần mở đường cho các hoạt động kinh doanh khác phát triển. Hơn nữa đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Chính vì vậy mà cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ có tính định hướng, nó là lĩnh vực tiên phong cho các ngành khác phát triển. Đặc điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách phải đưa ra kế hoạch dài hạn, chiến lược phát triển giao thông đường bộ lâu dài để phục vụ cho các ngành khác hoạt động hiệu quả trong tương lai. 3.3. Mang tính chất vùng và địa phương Việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm địa hình, khí hậu, phong tục tập quán, trình độ phát triển kinh tế của vùng, chính sách phát triển cảu nhà nước... Vì thế, hệ thống kết cấu giao thông đường bộ mang tính chất vùng, tính địa phương rõ nét. Đặc điểm này đặt ra trong quy hoạch phân bố hệ thống giao thông đường bộ, trong việc sử dụng các nguồn lực đầu vào... vừa phải đặt trong điều kiện tình hình chung đất nước, trong điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện kinh tế xã hội của vùng lãnh thổ. 3.4. Mang tính chất dịch vụ cộng đồng cao Các sản phẩm của ngành đều là các dịch vụ, phục vụ trực tiếp nhu cầu đi lại, sản xuất và đời sống của người dân trên phạm vi lãnh thổ cũng như ngoài lãnh thổ. Các sản phẩm đó không phải là dạng vật chất cụ thể mà nó được đo bằng khối lượng hang hóa vận chuyển, lưu lượng hành khách hoặc bằng mức độ thỏa mãn của khách hàng nhận được dịch vụ. Đặc điểm này có được xuất phát từ tác dụng của hệ thống giao thông đường bộ dùng để vận chuyển, luân chuyển hàng hóa và hành khách. Dịch vụ giao thông đường bộ là những hàng hóa công cộng, phục vụ vì mục đích chung của nhiều ngành, nhiều người cũng như toàn xã hội nói chung. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu giải quyết mối quan hệ giữa mục địch kinh doanh với mục đích phục vụ cộng đồng mang tích chất phúc lợi xã hội. Đồng thời xác định hệ thống các chủ thể tham gia sử dụng, hệ thống các chính sách và công cụ để điều hòa mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nơi có thu nhập của dân cư thấp, nguồn thu Ngân sách của Nhà nước hạn hẹp, không đủ để có thể đáp ứng hết nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế nói chung và của cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng. 4. Vai trò của hệ thống giao thông đường bộ với phát triển kinh tế - xã hội 4.1. Đường bộ đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội Mạng lưới giao thông đường bộ góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển, trao đổi hàng hóa của người dân giữa các vùng hoặc ngay trong một vùng, giao lưu quốc tế. Do đó, trước hết nó đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người, đảm bảo tái sản xuất sức lao động xã hội. 4.2. Thúc đẩy giao lưu hàng hóa, phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế giữa các ngành và các vùng lãnh thổ Để có được sản phẩm hàng hóa, người sản xuất cần có các yếu tố đầu vào của thị trường yếu tố sản xuất, những yếu tố này lại được vận chuyển đến tay người sản xuất chủ yếu thông qua hình thức vận chuyển bằng đường bộ. Như vậy, giao thông đường bộ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, là cầu nối giúp các ngành kinh tế phát triển một cách đồng đều. Mạng lưới giao thông đường bộ phát triển sẽ góp phần phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu giữa các nước trong khu vực, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa do quốc gia đó sản xuất ra, đi lại thuận lợi là điều kiện cho ngành du lịch phát triển... Do điều kiện tự nhiên các vùng khác nhau, nên trong quá trình phát triển sẽ có sự phát triển không đồng đều. Khi có giao thông đường bộ nối giữa vùng phát triển với vùng kém phát triển sẽ tạo ra quá trình trao đổi các nguồn lực giữa các vùng. Điều này có thể phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng và tạo tiền đề cho sản xuất chuyên môn hóa, hợp tác hóa, qua đó tạo nên hiệu quả kinh tế cao, nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. 4.3. Thu hút các nguồn lực bên ngoài Nguồn lực được nói đến ở đây không chỉ là vốn mà còn là sức lao động, chất xám, công nghệ, kỹ năng tổ chức và quản lý sản xuất. Với những quốc gia có trình độ năng lực sản xuất yếu kém như nước ta hiện nay thì đây là một lợi ích quan trọng mà hệ thống giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng đem lại. Với phạm vi một vùng lãnh thổ thì đường bộ là phương tiện đưa tới các nguồn lực từ các khu vực khác mà không có hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Còn trên phạm vi quốc gia thì đường bộ không chỉ là phương tiện mà còn là một yếu tố quan trọng để thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn căn cứ vào sự phát triển kết cấu hạ tầng trong đó có hạ tầng giao thông vận tải để đi đến quyết định đầu tư cuối cùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ hoàn chỉnh, thuận tiện sẽ tạo nên sức hấp dẫn cao đối với nhà đầu tư nước ngoài. II. Sự cần thiết phải phát triển KCHTGTĐB của khu vực đô thị ở Việt Nam Xây dựng các công trình KCHT GTĐB là một ngành sản xuất với mục đích làm tiền đề cho phát triển các ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của nó chính là sự thúc đẩy và tạo tiềm năng phát triển, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, tối ưu hóa các nguồn lực ở địa phương và cuối cùng là mở rộng quy mô và năng lực của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một khu vực nhất định. Có thể thấy được phần nào vai trò của việc phát triển KCHT qua kết quả đánh giá của Ngân hàng thế giới: nếu đầu tư cho KCHT tăng thêm 1% thì GDP cũng tăng thêm 1% và bình quân hằng năm một người dân nhận được 0,3% nước sạch; 0,8% mặt đường trải nhựa; 1,5% năng lượng và 1,7% về thông tin liên lạc. Trong thời kỳ suy giảm, việc đầu tư mạnh vào KCHT kỹ thuật là công cụ, chính sách để kích thích sự phục hồi nền kinh tế. Do đó việc phát triển và hoàn thiện mạng lưới đường bộ luôn là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Phát triển KCHTGTĐB là loại hình đầu tư mang tính xã hội hóa cao, lợi ích có được là cho cả nền kinh tế - xã hội nên ngoài mục đích thu lợi nhuận, nhà đầu tư chủ yếu muốn đạt lợi ích lâu dài mà thông qua hoạt động đầu tư này đem lại cho cộng đồng và xã hội. Việc sử dụng các công trình giao thông đường bộ đem lại những tiện ích và hữu dụng cũng như sự thuận lợi trong giao thông vận tải hàng ngày, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân. Cuộc sống của người dân quanh các công trình giao thông đường bộ được hưởng những lợi ích trực tiếp tới cuộc sống sinh hoạt của họ. Kết quả được hưởng là sự tiết kiệm thời gian, giảm chi phí vận chuyển con người và hàng hóa. Tốc độ khai thác các phương tiện đi lại và tình hình ùn tắc giao thông đã làm mất khá nhiều thời gian của khách hàng và phương tiện lưu thông trên đường. GTVT nói chung và giao thông đường bộ nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ chính là tiền đề giúp cho sự phát triển cân bằng về kinh tế giữa các vùng trong quốc gia, giảm chênh lệch mức sống người dân giữa các vùng kinh tế. Phát triển mạng lưới đường bộ hợp lý còn đem lại những tác động tích cực tới đời sống kinh tế - xã hội như: tác động giảm đói nghèo tại các vùng các vùng sâu, vùng xa do phát triển buôn bán thương mại, trao đổi hàng hóa có lợi thế so sánh, nâng cao đời sống người dân, tạo cơ hội tiếp cận thị trường lao động, tăng thu nhập... Lợi ích của việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ nhiều khi không thể lượng hóa, định lượng được. Đó là lợi ích gián tiếp đem lại từ việc xây dựng các công trình giao thông đường bộ. Những vấn đề cấp bách của xã hội sẽ được giải quyết thông qua việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Đó là sự giảm thiểu tỷ lệ tai nạn giao thông xảy ra trên đường do những hạn chế về chất lượng hệ thống đường bộ. Mạng lưới giao thông đường bộ sẽ ngày càng trở nên quá tải với số lượng và mật độ phương tiện giao thông phát triển như hiện nay. Do đó các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ luôn nằm trong chiến lược phát triển giao thông vận tải quốc gia cũng như phát triển kinh tế hội nhập. Một lợi ích khác mà thông qua phát triển KCHT GTĐB chúng ta có thể nhận được là việc cải thiện chất lượng môi trường. Những dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đều được tính tới yếu tố môi trường. Có thể nói, trong những năm gần đây, ngành GTVT đã được nhà nước ưu tiên tăng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông (bình quân khoảng 15% mỗi năm). Đối với nước ta, khi bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là khoảng 10 trở lại đây, việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng của đất nước. Sự phát triển nhanh và ngày càng nâng cao về chất lượng kết cấu hạ tầng GTĐB đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của xã hội. Đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tầm quan trọng của việc triển KCHT GTĐB khu vực đô thị được thể hiện trên các phương diện sau: 1. Về Kinh tế 1.1. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ tới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong vùng, thúc đẩy giao thương với các vùng khác và hội nhập quốc tế của vùng. Nếu đầu tư phát triển một hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đồng bộ và hiện đại sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các đô thị cũng như các tỉnh nói chung trong vùng, giảm sự chênh lệch về dân trí giữa các khu vực dân cư đó. Thực tế cho thấy đô thị nào có cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ được đầu tư phát triển thì có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn, tạo ra sự mất cân đối trong vùng. Tuy nhiên sự mất cân đối đó là không đáng kể trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, và ngày càng được thu hẹp dần do tốc độ phát triển cao của các đô thị “mới nổi” trong những năm gần đây (Bắc Ninh, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc). Mặt khác, việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ sẽ giúp cho vùng có thể tối ưu hóa các nguồn lực, phát huy tiềm lực của từng đô thị trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Nền sản xuất hàng hóa sẽ phát triển hơn nữa thông qua hệ thống trao đổi và phân phối sử dụng mạng lưới giao thông đ