Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu rõ: “ Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật đảm bảo đúng mục đích, có hiệu quả”.
Quy hoạch đất đai có vai trò rất quan trọng, vừa mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý của một hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế - xã hội để hình thành các phương án tổ chức lại việc sử dụng đất đai theo pháp luật Nhà nước, đáp ứng nhu cầu mặt bằng sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của tất cả các ngành, các lĩnh vực cũng như sinh hoạt của mọi người có hiệu quả nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng quy hoạch sử dụng đất không chỉ góp phần đáp ứng những nhu cầu cần thiết về đất đai của quá trình phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, mà nó còn là một công cụ quản lý của Nhà nước, thông qua đó Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ đất đai, thiết lập chế độ sử dụng đất tiết kiệm và hợp lý nhất.
Việc quy hoạch sử dụng đất- nhất là quy hoạch sử dụng đất cấp xã - không chỉ xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, làm cơ sở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, đầu tư phát triển kinh tế mà nó còn góp phần giữ vững trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự phát triển bền vững của vùng.
Chính vì vậy nên việc quy hoạch sử dụng đất xã Đồng Phú (huyện Chương Mỹ- Hà Tây) trong giai đoạn tới là vô cùng cần thiết.
Trong những năm vừa qua, tình hình sử dụng đất của xã đã tương đối ổn định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập do tính hợp lý trong phân bố đất đai chưa cao, do đó chưa phát huy hết thế mạnh của địa phương, thậm chí còn gây khó khăn, hạn chế cho sự phát triển chung của vùng. Xuất phát từ quan điểm trên chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “ Quy hoạch sử dụng đất xã Đồng Phú giai đoạn 2007 – 2015”.
68 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3944 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Quy hoạch sử dụng đất xã Đồng Phú giai đoạn 2007 – 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết của vấn đề
Trên đà phát triển chung của thế giới, Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác luôn luôn mong muốn vươn xa tầm ảnh hưởng và khẳng định mình trên trường quốc tế.
Là một nước đang phát triển, có xuất phát điểm thấp, Việt Nam đã và đang nỗ lực hết mình, tiến từng bước trên con đường phát triển và hội nhập nhằm cải thiện tình trạng tụt hậu trong khu vực và trên thế giới, đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu đó chúng ta cần phải phát triển đất nước một cách toàn diện (về kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội…) thì phải có một tầm nhìn chiến lược để định hướng phát triển chung cho cả nước.
Và một trong những yếu tố góp phần tích cực trong việc đưa ra những tầm nhìn mang tính chiến lược đó chính là công tác quy hoạch, kế hoạch đặc biệt là quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
Tất cả chúng ta đều biết, đất đai là một loại tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được, đặc biệt là đối với sản xuất nông nghiệp. Do vậy mà đất đai phải được sử dụng tiết kiệm,hợp lý để mang lại hiệu quả cao nhất.
Hiện nay, do trình độ nhận thức của người dân còn thấp, một số chính sách còn chưa thật sự hợp lý do vậy mà ý thức sử dụng đất chưa cao, gây ra sự lãng phí, ô nhiễm đất đai ( xói mòn, rửa trôi..) và đất nông nghiệp giảm trầm trọng. Chính vì vậy nên việc sử dụng đất đai theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước là vô cùng cần thiết.
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu rõ: “ Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật đảm bảo đúng mục đích, có hiệu quả”.
Quy hoạch đất đai có vai trò rất quan trọng, vừa mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý của một hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế - xã hội để hình thành các phương án tổ chức lại việc sử dụng đất đai theo pháp luật Nhà nước, đáp ứng nhu cầu mặt bằng sử dụng đất trong hiện tại và tương lai của tất cả các ngành, các lĩnh vực cũng như sinh hoạt của mọi người có hiệu quả nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng quy hoạch sử dụng đất không chỉ góp phần đáp ứng những nhu cầu cần thiết về đất đai của quá trình phát triển tổng thể kinh tế - xã hội, mà nó còn là một công cụ quản lý của Nhà nước, thông qua đó Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ đất đai, thiết lập chế độ sử dụng đất tiết kiệm và hợp lý nhất.
Việc quy hoạch sử dụng đất- nhất là quy hoạch sử dụng đất cấp xã - không chỉ xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, làm cơ sở cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, đầu tư phát triển kinh tế mà nó còn góp phần giữ vững trật tự an toàn xã hội, tạo ra sự phát triển bền vững của vùng.
Chính vì vậy nên việc quy hoạch sử dụng đất xã Đồng Phú (huyện Chương Mỹ- Hà Tây) trong giai đoạn tới là vô cùng cần thiết.
Trong những năm vừa qua, tình hình sử dụng đất của xã đã tương đối ổn định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập do tính hợp lý trong phân bố đất đai chưa cao, do đó chưa phát huy hết thế mạnh của địa phương, thậm chí còn gây khó khăn, hạn chế cho sự phát triển chung của vùng. Xuất phát từ quan điểm trên chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “ Quy hoạch sử dụng đất xã Đồng Phú giai đoạn 2007 – 2015”.
1.2. Mục đích
Quy hoạch sử dụng đất xã Đồng Phú nhằm mục đích tạo ra cơ cấu sử dụng đất đai hợp lý nhất có thể, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bố đất đai cho tất cả các ngành để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Ngoài ra, nó còn phục vụ cho mục đích khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, lao động, cơ sở vật chất… để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã, góp phần xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người dân, tạo môi trường cảnh quan sạch đẹp. Từ đó tạo tiền đề và làm bàn đạp cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cùng với các địa phương khác thực hiện những mục tiêu chung và chiến lược chung của đất nước.
1.3.Yêu cầu
Để đạt được những mục đích trên, quy hoạch sử dụng đất cần phải đáp ứng những yêu cầu sau:
- Chấp hành các quy định của pháp luật đất đai nhằm đảm bảo cho các đối tượng sử dụng đất thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
- Phải dựa trên các điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của địa phương và định hướng quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện, tỉnh để tiến hành công tác quy hoạch đất đai một cách hợp lý.
- Phải đảm bảo sự phát triển đồng bộ với các loại hình quy hoạch khác để tạo ra sự phát triển tổng hợp cho vùng.
- Tránh sự chồng chéo lẫn nhau giữa quy hoạch sử dụng đất cấp xã và cấp tỉnh, huyện.
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐẤT
2.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
2.1.1.Khái niệm quy hoạch sử dụng đất
Có thể nói quy hoạch sử dụng đất là một hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý của một hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội được xử lý bằng các phương pháp phân tích tổng hợp về sự phân bố địa lý của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Nó đáp ứng nhu cầu mặt bằng sử dụng đất hiện tại và tương lai của các ngành, các lĩnh vực cũng như nhu cầu sinh hoạt của mọi thành viên của xã hội một cách tiết kiệm khoa học, hợp lý và có hiệu quả cao.
Từ đó có thể rút ra khái niệm quy hoạch sử dụng đất như sau:
Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất cả nước, tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất xã hội và tạo điều kiện bảo vệ đất.
Nói tóm lại, quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những hình thức tổ chức sử dụng đất hợp lý nhằm phát huy đến mức cao nhất giá trị sử dụng và khả năng sinh lợi của đất, gắn việc sử dụng và bảo vệ, nâng cao độ màu mỡ của đất, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu của quy hoạch sử dụng đất
Vì quy hoạch sử dụng đất là một hoạt động vừa mang tính kỹ thuật, kinh tế vừa mang tính pháp chế, do vậy mà đối tượng nghiên cứu của quy hoạch sử dụng đất chính là:
- Nghiên cứu các quy luật về chức năng của đất như một tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Đề xuất các biện pháp tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao kết hợp với bảo vệ đất và môi trường trong tất cả các ngành căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể của từng vùng lãnh thổ.
2.1.3. Phân loại quy hoạch sử dụng đất
Ngoài nhiệm vụ tổ chức sử dụng đất trong phạm vi ranh giới từng đơn vị sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đất còn phải đáp ứng nhu cầu đất cho các ngành, các chủ sử dụng đất. Luật đất đai quy định hệ thống quy hoạch sử dụng đất của nước ta gồm 4 cấp:
Quy hoạch sử dụng đất đai cả nước.
Quy hoạch sử dụng đất đai cấp tỉnh (bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương).
Quy hoạch sử dụng đất đai cấp huyện (bao gồm các huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh).
Quy hoạch sử dụng đất cấp xã (bao gồm các xã, phường, thị trấn). Quy hoạch sử dụng đất đai cấp xã được gọi là quy hoạch sử dụng đất chi tiết.
Bên cạnh đó, luật đất đai quy định việc lập quy hoạch sử dụng đất theo ngành, bao gồm:
Quy hoạch sử dụng đất đai của Bộ Quốc phòng.
Quy hoạch sử dụng đất của Bộ Công an.
(Đoàn Công Quỳ, 2006)
2.1.4. Chức năng và nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất.
* Chức năng
Trong quá trình sản xuất, việc sử dụng tài nguyên đất đai hợp lý và có hiệu quả là một vấn đề cần thiết, và một trong những biện pháp tốt nhất đó là thực hiện công tác quy hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch sử dụng đất có chức năng tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất giống như các tư liệu sản xuất khác, để từ đó tìm ra các giải pháp sử dụng đất có hiệu quả trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn lực của xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, cùng với đó là nhiệm vụ bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Không chỉ vậy, quy hoạch sử dụng đất còn tham gia điều chỉnh các mối quan hệ về đất đai, giúp cho công tác quản lý tài nguyên đất đai của Nhà nước thực hiện dễ dàng hơn.
Quy hoạch sử dụng đất phải luôn đi trước một bước bởi nó là nền tảng cho tất cả các ngành, các lĩnh vực.
* Nhiệm vụ:
Sự phát triển của nền kinh tế quốc dân đòi hỏi phải tổ chức phân bố hợp lý lực lượng sản xuất trong từng vùng và trên phạm vi cả nước. Đây chính là nhiệm vụ quan trọng nhất của quy hoạch sử dụng đất.
Trong nhiều trường hợp, khi quy hoạch sử dụng đất phải tiến hành trên quy mô lớn, có thể là một vùng lãnh thổ của một huyện, một tỉnh hoặc một vùng kinh tế lớn gồm nhiều tỉnh hợp lại thì nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất là phải giải quyết vấn đề phân chia lại lãnh thổ, tổ chức sản xuất và lao động, bố trí lại mạng lưới điểm dân cư, tổ chức lại các đơn vị sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất có thể giải quyết vấn đề di chuyển dân cư, khai hoang xây dựng nền kinh tế mới, bố trí lại các xã, nông trường, lâm trường, thậm chí phải bố trí lại các huyện, các tỉnh (phân chia lại các tỉnh, huyện, thành lập tỉnh, huyện mới).
Ngoài ra, quy hoạch sử dụng đất còn phải đáp ứng nhu cầu đất cho các ngành, các chủ sử dụng đất thông qua việc thành lập các đơn vị sử dụng đất mới hoặc chỉnh lý, hoàn thiện các đơn vị sử dụng đất đang tồn tại.
Tóm lại, quy hoạch sử dụng đất có một nhiệm vụ rất quan trọng. Trên cơ sở khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của vùng, quy hoạch sử dụng đất sẽ tổ chức sử dụng đất đai hợp lý, có hiệu quả cao nhằm phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, góp phần thực hiện tốt mục tiêu và chiến lược chung của cả nước.
2.1.5. Mối quan hệ của quy hoạch sử dụng đất đai với công tác Quản lý Nhà nước, sự phát triển kinh tế -xã hội và với các loại quy hoạch khác.
* Với công tác quản lý Nhà nước: quy hoạch sử dụng đất là công cụ để Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ đất đai, thiết lập thể chế quản lý sử dụng tài nguyên đất, củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quy hoạch sử dụng đất còn có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các hành vi xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của các đơn vị sử dụng đất, bởi vì khi quy hoạch sử dụng đất người ta đã lập nên đường ranh giới giữa các đơn vị sử dụng đất, giữa đất sản xuất nông nghiệp với khu dân cư, giữa các chủ sử dụng đất với nhau, tức là đã xác định phạm vi quyền lợi của mỗi chủ sử dụng đất.
* Với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội:
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất là tài nguyên đất, nhiệm vụ chủ yếu của nó là căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế và các điều kiện tự nhiên, kinh tế,xã hội mà điều chỉnh phương hướng sử dụng đất, xây dựng phương án sử dụng đất hợp lý. Như vậy, quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch tổng hợp chuyên ngành, cụ thể hoá quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội nhưng nội dung của nó phải điều hoà thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội.
*Với quy hoạch đô thị
Quy hoạch sử dụng đất được tiến hành nhằm xác định chiến lược dài hạn về vị trí, quy mô và cơ cấu sử dụng toàn bộ đất đai cũng như bố cục không gian trong khu vực quy hoạch đô thị.
Quy hoạch đô thị và quy hoạch sử dụng đất có mối quan hệ diện và điểm, cục bộ và toàn bộ. Quy mô sử dụng đất, các chỉ tiêu chiếm đất xây dựng trong quy hoạch đô thị sẽ được điều hoà với quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử dụng đất tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và phát triển đô thị.
* Với quy hoạch các ngành
Quan hệ giữa quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển các ngành là quan hệ vừa tương hỗ vừa hạn chế nhau. Quy hoạch các ngành là cơ sở và bộ phận hợp thành của quy hoạch sử dụng đất nhưng lại chịu sự chỉ đạo và khống chế của quy hoạch sử dụng đất. Một bên là sự sắp xếp chiến thuật, cụ thể, cục bộ (quy hoạch các ngành), một bên là sự định hướng chiến lược có tính toàn diện và toàn cục (quy hoạch sử dụng đất).
2.1.6. Trình tự tiến hành quy hoạch sử dụng đất
2.1.6.1.Công tác chuẩn bị và điều tra cơ bản.
Công tác chuẩn bị.
- Thành lập ban chỉ đạo xây dựng quy hoạch: Trưởng ban là Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch cấp làm quy hoạch, thư ký và uỷ viên (là thủ trưởng các ban ngành cùng cấp).
- Tổ chức lực lượng, phương tiện làm việc: có thể tổ chức theo hai hướng: huy động lực lượng tự làm hoặc thuê cơ quan chuyên môn từ bên ngoài.
- Xây dựng luận chứng kinh tế -kỹ thuật và kế hoạch tiến hành. Luận chứng được xây dựng theo đúng quy định và sau khi được cơ quan chính quyền cấp trên phê duyệt sẽ là căn cứ để triển khai thực hiện.
- Thành lập Hội đồng xét duyệt quy hoạch. Chủ tịch Hội đồng quy hoạch là lãnh đạo cơ quan chính quyền cấp trên trực tiếp. Thành viên Hội đồng là các ban ngành chủ chốt.
Công tác điều tra cơ bản: Thu thập các số liệu, tài liệu cần thiết phục vụ cho công tác quy hoạch, gồm 2 giai đoạn sau:
- Giai đoạn điều tra nội nghiệp: Giai đoạn này cần tập hợp các tài liệu sau:
+ Tài liệu bản đồ
+ Tài liệu pháp quy
+ Tình hình biến động đất đai trong những năm qua (thường là 5- 10 năm).
+ Các tài liệu khái quát về tình hình sử dụng đất đai của địa phương.
+ Các tài liệu về tình hình kinh tế xã hội của địa phương.
Giai đoạn điều tra ngoại nghiệp
Thực chất đây là công tác khảo sát ngoài thực địa nhằm bổ sung và chính xác hoá các thông tin thu thập được ở trong phòng.
Đối với cấp xã thì công tác ngoại nghiệp gồm:
+ Kiểm tra mức độ phù hợp của các tài liệu
+ Xác định những khu đất có tranh chấp hay sử dụng đất không hợp pháp.
+ Bổ sung, chỉnh lý, cập nhật những biến động tự nhiên về hiện trạng sử dụng đất.
+ Điều tra những vị trí dự kiến quy hoạch.
+ Xác định các chi phí thiệt hại và chi phí đầu tư chưa sử dụng hết trên các khu vực dự kiến sử dụng vào mục đích khác.
2.1.6.2.Xây dựng các phương án quy hoạch.
Các phương án quy hoạch được xây dựng theo một trình tự và có nội dung nhất định, phụ thuộc vào cấp làm quy hoạch. Trong trường hợp có nhiều phương án thì cần phân tích, đánh giá, so sánh các phương án với nhau để chọn ra phương án tối ưu.
2.1.6.3.Xét duyệt và phê chuẩn các phương án.
Phương án quy hoạch sử dụng đất được thông qua ở UBND xã và được duyệt ở UBND huyện, có ý kiến thẩm định của Sở Địa chính.
2.1.6.4.Kiểm tra và chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch.
- UBND cấp làm quy hoạch có trách nhiệm tổ chức thực hiện chỉ đạo
- UBND cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện quy hoạch.
Sau 3 năm, quy hoạch sẽ được điều chỉnh nếu dự án không được thực hiện.
2.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT
Cơ sở pháp lý của quy hoạch sử dụng đất chính là Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, Luật đất đai ban hành năm 2003, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001 và các văn bản dưới luật.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam ban hành năm 1992 là căn cứ pháp lý, quan trọng nhất. Điều 18 của Hiến pháp đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả”.
Ngày 01/07/2004 Luật đất đai 2003 đã chính thức có hiệu lực, trong đó tại điều 6 đã khẳng định cho thấy: Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất là một trong 14 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai, và tại điều 21 đến 30 cũng đã quy định chi tiết về công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
Ngoài các văn bản Hiến pháp và Luật có tính pháp lý cao còn có các văn bản dưới luật, các văn bản của các ban ngành trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất:
- Nghị định số 181//2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của chính phủ về việc hướng dẫn thi hành Luật đất đai ( từ điều 12 đến điều 29)
- Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường về việc hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT về việc ban hành Quy trình lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Chỉ thị số 15/2001/TC-UB ngày 02/07/2001 của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tây về việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
2.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
2.3.1.Tình hình nghiên cứu sử dụng đất trên thế giới.
Có thể nói rằng công tác quy hoạch sử dụng đất đóng một vai trò rất quan trọng và không thể thiếu đối với mỗi quốc gia. Chính vì vậy trên thế giới việc quy hoạch sử dụng đất đã được tiến hành từ khá lâu và ngày càng được hoàn thiện và phù hợp hơn với từng nước.
Ở Angiêri: Việc quy hoạch sử dụng đất được tiến hành dựa trên nguyên tắc nhất thể hoá, liên hợp hoá và kỹ thuật đa phái. Chính phủ thừa nhận trong quá trình quy hoạch được tiến hành với sự tham gia đầy đủ của các địa phương có liên quan, các tổ chức ở các cấp.
- Ở Canada: Chính phủ đưa ra mục tiêu chung ở cấp quốc gia, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các hoạt động lập quy hoạch đất đai ở cấp bang. Chính phủ liên bang hướng dẫn về mặt khoa học, kỹ thuật để đảm bảo thuận lợi cho quy hoạch đất đai ở cấp bang.
- Ở Pháp: Quy hoạch đất đai được tiến hành xây dựng theo mô hình hóa nhằm đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và lao động. Áp dụng các bài toán quy hoạch tuyến tính nhằm tăng hiệu quả của qúa trình sản xuất xã hội.
- Ở Nam Phi: Quy hoạch đất đai được tiến hành ở cấp quốc gia với sự tham gia của chính quyền cấp tỉnh, huyện. Đồ án quy hoạch cấp quốc gia làm căn cứ cho chính quyền cấp tỉnh soạn thảo các đồ án chi tiết phù hợp với các đơn vị chính quyền thấp hơn.
- Ở Thái Lan: Quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành ở 3 cấp: Quốc gia, vùng, á vùng. Quy hoạch sử dụng đất đai nhằm cụ thể hoá các chương trình kinh tế, xã hội của hoàng gia Thái Lan.
Nhìn chung, công tác quy hoạch đất đai ở mỗi nước là không giống nhau và nó phụ thuộc vào điều kiện cụ thể và trình độ phát triển của mỗi nước. Trong quá trình quy hoạch đất đai chúng ta cũng cần phải tìm hiểu thêm về vấn để này ở các nước trên thế giới và trong khu vực để từ đó có thể học hỏi, rút kinh nghiệm và đưa ra những phương án tốt nhất, phù hợp nhất trong điều kiện có thể của nước ta hiện nay và trong tương lai.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu sử dụng đất ở Việt Nam.
Ở miền Bắc, công tác quy hoạch sử dụng đất đai được tiến hành từ năm 1962 và được lồng vào công tác quy hoạch nông -lâm nghiệp nhưng còn thiếu tính đồng bộ của các ngành liên quan và tính pháp lý của công tác quy hoạch đất đai trong các văn bản hầu như không có.
Sau này vấn đề quy hoạch sử dụng đất ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm hơn và đã có bước tiến đáng kể.
Thời kỳ 1975 – 1980
Đây là thời kỳ đất nước ta vừa mới thống nhất, Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo vùng quy hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp Trung ương để triển khai công tác này trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên thời kỳ này công tác quy hoạch sử dụng đất còn nhiều hạn chế đó là thiếu số liệu điều tra cơ bản về đất đai, trình độ còn hạn chế do vậy mà tính khả thi của các phương án còn chưa cao.
Thời kỳ 1981 – 1986
Thời kỳ này nội dung và cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ đã được đề cập đến ở cấp huyện, tỉnh và cả nước. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã chưa được đề cập đến.
Thời kỳ 1987 – 1992
Năm 1987 Luật đất đai đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành, trong đó cũng đã đề cập đến vấn đề quy hoạch đất đai, tuy vậy nội dung của quy hoạch sử dụng đất vẫn chưa được nêu.
Ngày 15/04/1991 Tổng cục Quản lý ruộng đất đã ra Thông tư 106/QH-KH/RĐ hướng dẫn lập quy hoạch sử dụng đất.
Thời kỳ 1993 đến nay
Thời kỳ này Luật đất đai 1993 đã được công bố, vấn đề quy hoạch đất đai đã được cụ thể hơn Luật đất đai năm 1987.
Từ đó Tổng cục Địa chính đã triển khai quy hoạch đất đai giai đoạn 1996 – 2010 và đã được Chính phủ thông qua và Quốc hội phê chuẩn tại kỳ họp thứ 11 khoá IX. Đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng quy hoạch đất đai của các bộ, ngành và các tỉnh.
Ngày 01/07/2004 Luật đất đai 2003 chính thức có hiệu lực, Luật đã quy định rất rõ về công tác Quản lý Nhà nước về đất đai, trong đó đã nêu rõ về trình tự, nội dung của công tác quy hoạch sử dụng đất.
Trong những năm gần đây công tác quy hoạch sử dụng đất đã ngày càng được hoàn thiện hơn góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại n