Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật như ngày nay, đã từng bước cải thiện đời sống về mọi mặt. Cơ khí hóa, tự động hóa cũng là một phương châm của nhà nước ta. Trong tất cả các cơ quan, xí nhiệp đều từng bước tự động hóa dần. Ngay cả trong việc quản lý của các cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đều tìm kiếm những phương pháp quản lý như thế nào cho nhanh chóng, chính xác, và hiệu quả cao. Hiện nay một trong những công cụ mạnh nhất đó là các phần mềm của máy tính. Các hãng phần mềm danh tiếng trên thế giới như Microsoft, Apple, vv. chuyên khai thác các dịch vụ văn phòng. Nhưng nhu cầu của con người cũng như nhu cầu của các cơ quan, các công ty, xí nghiệp là rất lớn, và từng hoạt động cụ thể của họ cũng khá phức tạp, đa dạng cho nên cần có những phần mềm chuyên dụng để đáp ứng nhu cầu cho từng hoạt động của công ty xí nghiệp đó.
Bước sang thế kỷ 21, đất nước chúng ta với đà phát triển của khoa học kỹ thuật, từng bước xây dựng đất nước hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Khi một đất nước đã phát triển về mọi mặt thì đòi hỏi phải có một mối liên hệ chặc chẽ giữa các ngành và các tổ chức nhà nước với nhau. Như vậy thì ngành công nghệ thông tin cũng phải phát triển vượt bật để đáp ứng nhu cầu đó. Lúc này mạng máy tính là một phương tiện hữu hiệu để làm nhịp cầu nối giữa các ngành, các công ty, xí nghiệp và các cơ quan nhà nước. Hiện nay mạng máy tính tỏ ra thật là hữu hiệu trong mọi ngành nghề vì nó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bất cứ lúc nào chúng ta cần thì mạng máy tính trên toàn cầu đều có thể đáp ứng những kiến thức chúng ta cần tìm thông qua công cụ hữu hiệu hiện nay là các Web Site. Đề tài của em cũng là xây dựng Web Site phục vụ tra cứu thông tin cho sinh viên trường Đại Học Kỹ Thuật. Mục đích của trang Web là cho phép sinh viên tìm kiếm, tham khảo các thông tin cần thiết trong quá trình học tập, nghiên cứu một cách nhanh chóng, để sau này thông qua trang Web cài đặt trên mạng máy tính của trường.
36 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thiết kế Web Site phục vụ tra cứu thông tin cho sinh viên tại trường Đại học kỹ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật như ngày nay, đã từng bước cải thiện đời sống về mọi mặt. Cơ khí hóa, tự động hóa cũng là một phương châm của nhà nước ta. Trong tất cả các cơ quan, xí nhiệp đều từng bước tự động hóa dần. Ngay cả trong việc quản lý của các cơ quan nhà nước hoặc tư nhân đều tìm kiếm những phương pháp quản lý như thế nào cho nhanh chóng, chính xác, và hiệu quả cao. Hiện nay một trong những công cụ mạnh nhất đó là các phần mềm của máy tính. Các hãng phần mềm danh tiếng trên thế giới như Microsoft, Apple, vv.. chuyên khai thác các dịch vụ văn phòng. Nhưng nhu cầu của con người cũng như nhu cầu của các cơ quan, các công ty, xí nghiệp là rất lớn, và từng hoạt động cụ thể của họ cũng khá phức tạp, đa dạng cho nên cần có những phần mềm chuyên dụng để đáp ứng nhu cầu cho từng hoạt động của công ty xí nghiệp đó.
Bước sang thế kỷ 21, đất nước chúng ta với đà phát triển của khoa học kỹ thuật, từng bước xây dựng đất nước hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Khi một đất nước đã phát triển về mọi mặt thì đòi hỏi phải có một mối liên hệ chặc chẽ giữa các ngành và các tổ chức nhà nước với nhau. Như vậy thì ngành công nghệ thông tin cũng phải phát triển vượt bật để đáp ứng nhu cầu đó. Lúc này mạng máy tính là một phương tiện hữu hiệu để làm nhịp cầu nối giữa các ngành, các công ty, xí nghiệp và các cơ quan nhà nước. Hiện nay mạng máy tính tỏ ra thật là hữu hiệu trong mọi ngành nghề vì nó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bất cứ lúc nào chúng ta cần thì mạng máy tính trên toàn cầu đều có thể đáp ứng những kiến thức chúng ta cần tìm thông qua công cụ hữu hiệu hiện nay là các Web Site. Đề tài của em cũng là xây dựng Web Site phục vụ tra cứu thông tin cho sinh viên trường Đại Học Kỹ Thuật. Mục đích của trang Web là cho phép sinh viên tìm kiếm, tham khảo các thông tin cần thiết trong quá trình học tập, nghiên cứu một cách nhanh chóng, để sau này thông qua trang Web cài đặt trên mạng máy tính của trường.
PHẦN 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. Tên đề tài:
“ Thiết kế Web Site phục vụ tra cứu thông tin cho sinh viên tại trường Đại học kỹ thuật ”
2. Mục đích:
Xây dựng Web Site truy cập thông tin trên mạng với mục đích phục vụ cho sinh viên các khóa có thể truy cập những thông tin cần thiết trên mạng của trường để phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu của mình. Bên cạnh đó cũng phục vụ cho tất cả những ai quan tâm và muốn truy cập thông tin trên mạng máy tính của trường. Thông tin mà sinh viên có thể truy cập chủ yếu là đồ án môn học, đồ án tốt nghiệp và những thông tin khác.
3. Ý nghĩa thực tế:
Theo qui luật cung cầu thì khi có cầu tất nhiên sẽ có cung. Cũng vậy đề tài này cũng phát xuất từ thực tế các nhu cầu của sinh viên các khóa sau muốn có một trang web truy cập những thông tin các khóa trước để tham khảo và học hỏi. Vì vậy Web Site truy cập thông tin không thể thiếu để sinh viên hoặc những ai quan tâm đến tin học cũng có cơ hội dạo chơi trên Web Site của mạng trường.
Với đà phát triển của khoa công nghệ thông tin trường ĐHKT ngày nay thì từng bước kiện toàn về tổ chức cũng như số lượng sinh viên theo học ngành tin mỗi ngày một đông. Hơn thế nữa việc đưa tất cả các thông tin, dữ liệu của các khoa, các ngành trong trường lại để cho có hệ thống dễ dàng liên hệ thông tin giữa các khoa với nhau cũng là một vấn đề rất cần thiết sau này. Nếu có điều kiện thì Web Site này cũng có thể phất triển tốt hơn để phục vụ nội bộ cho trường chúng ta.
Trong tương lai trường Đại Học Kỹ Thuật sẽ có một mạng cục bộ cho toàn trường, thì bất cứ một sinh viên nào thuộc bất cứ khoa nào, cũng đều có thể truy cập thông tin cần thiết cho mình qua trang Web site này.
4. Nội dung:
Web Site sẽ đưa tất cả những thông tin thật cần thiết và hữu ích lên mạng một cách có tổ chức để sinh viên dể dàng truy cập. Nội dung bao gồm:
Đồ án tốt nghiệp các khóa.
Đồ án môn học các khóa
Thời khóa biểu của các lớp trong khoa công nghệ thông tin
Thông tin về các hoạt động của khoa
Thông tin về cơ cấu tổ chức lãnh đạo của trường và khoa.
Thông tin về danh sách các giảng viên của khoa
Thông tin về tài sản hiện có của khoa
Giới thiệu về trường
PHẦN 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1. Tạo các trang Web chuẩn bằng ngôn ngữ HTML
1.1Sơ lược về ngôn ngữ HTML.
Như ta đã biết HTML là ngôn ngũ được thiết kế để đặt tả các tổ chức logic và định dạng của các tài liệu text. Nó có thể tích hợp cả hình ảnh, form và các siêu liên kết đến các tài liệu và các tài nguyên khác trên mạng. Kết quả của phương pháp này là một ngôn ngữ đánh dấu mà:
+ Không bị giới hạn trong môi trường phần cứng hay phần mềm cụ thể.
+ Thể hiện cấu trúc của tài liều mà không thể hiện sự trình bày của nó.
Điều này phản ảnh khả năng hoạt động trong môi trường phân tán của HTML. Các cá nhân có thể xem một tài liệu sử dụng các trình duyệt khác nhau có các khả năng vật lý rất khác nhau. Ví dụ nó không chỉ định một đoạn văn bản phải được trình bày bằng một font chữ cụ thể. HTML không đặc tả chi tiết kiểu thiết lập tài liệu, thay vào đó nó đánh dấu các phần tử logic của cấu trúc tài liệu như heading, list hay paragraph... Việc trình bày chi tiết các phần tử này là tùy thuộc vào trình duyệt. Nó có thể sử dụng sự mô tả logic của tài liệu để trình bày tài liệu một cách tốt nhất nếu có thể. Do đó cùng một tài liệu có thể được trình bày trong các trình duyệt đồ họa hay phi đồ họa, cũng có thể bởi các trình duyệt không trực quan như các trình duyệt text speech hay Brandle needer.
HTML được định nghĩa theo thuật ngữ SGML (Standard Generalized Markup Language) của tổ chức chuẩn quốc tế OSI. SGML là hệ thống định nghĩa kiểu tài liệu cấu trúc phức tạp và định nghĩa ngôn ngữ đánh dấu để sử dụng các tài liệu kiểu này. HTML chỉ là một thể nghiệm của tiến trình này. Do đó nó phát triển theo hướng đơn giản hóa SGML.
HTML ngày càng phát triển và trải qua các thay đổi vững chắc trong nhiều năm. Các browser mới nhất hiện nay là HTML 4.0. Các nhà phát triển browser như Netscape và Microsoft đã đưa ra các phần tử ngoài các thẻ chuẩn HTML. Do đó ta nên cẩn thận khi thiết lập các trang HTML, nó có thể duyệt trên các trình duyệt này mà không được trên các trình duyệt khác. Sau đây ta tìm hiểu một số đặc điểm của HTML.
1.2 Các kí tự đặc biệt
Một số ký tự ASSCII được sử dụng một các đặc biệt trong tài liệu HTML. Chẳng hạn tự “&” được sử dụng một thực thể hay tham chiếu ký tự, các dấu ngoặc “”dùng để chỉ các thẻ. Các bộ biên dịch HTML biên dịch các ký tự này theo các đặc biệt không như các ký tự thông thường. Nếu ta muốn các ký tự này hiển thị trong văn bản của mình thay vì được biên dịch như các dòng lệnh ta phải dùng nó như một tham chiếu ký tự hay tham chiếu thực thể. Dưới đây là một số ký tự đặc biệt trong HTML:
Các ký tự đặc biệt trong HTML
Ký Tự
Tham Chiếu Ký Tự
Tham Chiếu Thực Thể
Ngoặc trái (<)
Ngoặc phải (>)
Dấu và (&)
Dấu nháy kép (“ “)
<
>
&
"
<
>
&
"
1.3 Kiểu MINE trong HTML
Thuật ngữ MINE được viết tắt từ chữ “ Multipart Independent Mail Extension” ban đầu là một sơ đồ dược thiết kế để gửi các thông điệp thư hổn hợp (chứa hình ảnh, text và các dạng khác) sư dụng giao thức thư điện tử chuẩn. Lược đồ MINE sử dụng các tiêu đề MINE content -type để định nghĩa nội dung các kiểu dữ liệu khác nhau phục vụ cho việc gửi các thông điệp mail. Trên World Wide Web các kiểu MINE được sử dụng bởi giao thức HTTP để truyền đạt kiểu tài liệu. Khi một HTTP server gửi một thông điệp tới client nó bao gồm một tiêu đề MINE content - type chỉ định kiểu dữ liệu đang gửi. Ví dụ một tệp ảnh dạng JPEG được gửi từ HTTP server tới client sẽ kèm theo xâu thông điệp sau:
Content-type: image/jpeg
Như một phần của tiêu đề HTTP đi trước dữ liệu thực sự. HTTP server xem tài liệu HTML như bất kỳ kiểu MINE khác. Khi truyền một tài liệu HTML nó truyền trước trong tiêu đề thông điệp :
Content-type: text/html
1.4. Các thẻ đánh dấu và các phần tử HTML
Một tài liệu HTML đơn giản là một tệp văn bản, trong đó một số xâu ký tự được gọi là các thẻ đánh dấu các vùng tài liệu và ấn định các ý nghĩa đặc biệt cho chúng. Theo đặc trưng của SGML thì các vùng và các thẻ bao bọc gọi là các phần tử. Các thẻ là các xâu ký tự được bao bọc giữa các ký tự nhỏ hơn (“”). Ví dụ: là thẻ bắc đầu phần tử tiêu đề mức một và là thẻ kết thúc phần tử.toàn bộ phần tử H1 là xâu:
Đây là xâu tiêu đề 1
Hầu hết các phần tử đều tương tự như ví dụ này, nó đánh dấu các vùng tài liệu thành các khối văn bản và chính các khối này đến lược nó cũng có thể chứa các phần tử khác. Ta có thể coi một tài liệu như là sự phân cấp các tài liệu. Các phần tử đánh các khối thường được gọi là các container. Các phần tử không có nội dung gọi là các thẻ trống.
Mỗi phần tử có một ten xuất hiện bên trong các thẻ, mà nó liên quan đến các ý nghĩa của các phần tử. Ví dụ phần tử H1 được sử dụng để đánh dấu tiêu đề H1. Một phần tử cũng có thể có các thuộc tính dùng để đặc tả các thuộc tính của phần tử đó. Chẳng hạn phần tử A có thuộc tính HREF dùng để chỉ định đích của liên kết. Hầu hết các phần tử được gán các giá trị. Các thuộc tính luôn xuất hiện trong thẻ bắt đầu và không bao giờ xuất hiện trong thẻ kết thúc, các thuộc tính thường là tùy chọn.
1.5 Cấu trúc tổng quát của một tài liệu HTML
Mọi tài liệu HTML có thể được phân chia thành hai phần chính:
Phần thân (body) chứa nội dung của tài liệu được biểu thị bởi brower và phần thứ hai là phần đầu (head) chứa các thông tin về tài liệu nhưng không hiển thị. Các phần này được định nghĩa bởi phần tử BODY và HEAD tương ứng. Cấu trúc tổng quát của mọt tài liệu HTML thường là :
.....các phần tử hợp lệ trong phần đầu
......các phần tử hợp lệ ở phần thân
2. Active Server Pages (ASP)
2.1 ASP là gì.
ASP (Active Sever Pages) là file HTML chuẩn mà được mở rộng để cộng thêm những cái đặc biệt. Giống như một file HTML chuẩn có thể chứa đích HTML mà sẽ được trình diễn và hiện ra màn hình bởi trình duyệt Web. Bất cứ điều gì bạn làm trong một trang HTML thì bạn cũng điều có thể làm trong trang ASP (như : môt ứng dụng Java, nhúng kết text, hoặc điều khiển ActiveX về phía người dùng vv..). Tuy nhiên một ASP có 4 điểm đặc biệt quan trọng mà khi làm nó cần chú ý đến:
+ Một ASP có thể chứa những tác phẩm về phía server. Có thể tạo ASP bằng VBScript, Jscript. Chúng ta có thể khởi tạo một ASP chứa nội dung động. Ví dụ chúng ta có thể tạo một trang Web trình bày những thông báo khác nhau ở những thời điểm khác nhau trong ngày.
+ Một ASP cho phép xây dựng các đối tượng mà các đối tượng được xây dựng này có khả năng truy cập một ASP, mà tác phẩm của chúng ta tạo ra có nhiều khả năng hơn. Những đối tượng này cho phép chúng ta gọi thông tin từ trình duyệt đồng thời cũng có thể gởi thông tin đến cho trình duyệt. Ví dụ bằng cách sử dụng đói tượng Request chúng ta có thể gởi thông tin mà người sử dụng đẫ trải qua quá trình kiểm tra gởi một Form HTML và đáp ứng lại thông tin đó trong Script.
+ Một ASP có thể cộng thêm nhiều thành phần hợp nhất. ASP gói một số các Server-side ActiveX component chuẩn. Những thành phần hợp nhất này cho phép chúng ta làm nhiều việc ở đầu cuối ở các trình duyệt Web khác nhau hay chứa cả các trang đếm trong các trang Web.
+ Một ASP có thể tương tác với dữ liệu như Microsoft SQL Server. Bằng cách dùng các đối tượng tập hợp đặc biệt như ActiveX Data Object (ADO), chúng ta có thể dùng SQL trong ASP.
Bốn điểm đặc biệt này định nghĩa một ASP. Một ASP là một trang HTML chuẩn mà đã được mở rộng với server-side scripts, objects, components. Sử dụng ASP chúng ta có thể tạo các Web Site có nội dung động.
2.2 Chúng ta có thể làm gì với ASP
Sự hoàn hảo trong ASP là không có giới hạn. Nói về bất kỳ một Web Site nào mà tồn tại trên Internet ngày nay cũng đều được tạo ra bằng ASP là nhiều. Sau đây liệt kê một vài ví dụ để chúng ta biết ASP có thể làm gì:
+ Chứa các tiêu đề hoặc biểu ngữ quảng cáo chạy vòng trong trang Web của Web Site chúng ta.
+ Tiếp Nhận Thông tin Nhập vào từ một Form HTML và chứa thông tin đó vào trong cơ sở dữ liệu.
+ tạo những trang Web cá nhân để trình bày nội dung khác nhau từ những người sử dụng khác nhau.
+ Cộng thêm những thẻ đếm chống mất cắp để quản lý một hay nhiều trang của Web site chúng ta.
+ Trình bày những trang Web khác nhau phụ thuộc vào khả năng của trình duyệt.
+ Liên kết nhiều trang lại với nhau một các dễ dàng.
+ kiểm tra thông tin về hoạt động của người dùng ở Web Site và lưu giữ thông tin đó trong file nhật ký khách hàng.
2.3 Cấu trúc một file ASP
Là một file text có phần mở rộng là .asp, bao gồm các thành phần :
Text
HTML tags
Script commands
Script commands là các lệnh gán biến, các lệnh yêu cầu Web Server gởi thông tin đến một Brower ( Như giá trị biến ), lệnh gọi Procedure.... Thực ra nó là đoạn văn bản mà khi Web Server đọc tới thì nó hiểu đó là vùng Script chứa các lệnh của một ngôn ngữ Script nào đó, Web Server sẽ gọi tới các Script engine để thực thi các lệnh Script này. ASP qui định một vùng Script nằm giữa hai dấu hoặc trong vùng của hai Tag và .
Script là nơi thể hiện các yêu cầu của người lập trình đối với ASP, nó chứa các câu lệnh mà người lập trình muốn ASP thực hiện và nội dung người đó muốn tạo ra trên trang HTML, kết quả trả về cho Web brower gọi đến ứn dụng.
Tóm lại Script giống như một chương trình được người lập trình viết ra để thực thi trên môi trường hoạt động của ASP, cũng giống như các chương trình trong mọi ngôn ngữ lập trình khác như C, Pascal, Java..., chỉ có điểm khác là chương trình của các ngôn ngữ khác phải biên dịch ra dạng thực thi được và dùng dạng thực thi được đó để thực thi trên một môi trường nào đó (DOS, Windows, Unix,...), còn Script thì không phải biên dịch trước ra dạng thực thi được mà đem dạng text chạy thẳng trong môi trường của ASP.
2.4 Những vấn đề liên quan đến việc xây dựng một ứng dụng trên ASP:
File Global.asa
Sử dụng các ngôn ngữ Script
Sử dụng các Object có sẵn
Sử dụng các ActiveX Server Component
2.4.1 File Global.asa
File Global.asa là một file tùy chọn, trong đó bạn có thể khai báo các Script đáp ứng các biến cố, các đối tượng có tầm vực mức application (ứng dụng) hay session. Đây không phải là một file được nhìn thấy bởi các user, trái lại nó chứa những thông tin được sử dụng bởi ứng dụng một cách toàn cục. File này phải được đặt tên là Global.asa và được đặt trong thư mục gốc của ứng dụng. Mỗi ứng dụng chỉ có một file Global.asa duy nhất, và nó phải được đặt trong thư mục gốc của ứng dụng. Môt File Global.asa có thể chứa các thành phần sau: Application events, Sesstion events, định nghĩa các đối tượng.
Nếu bạn viết những Script không được bao bởi tag , hoặc định nghĩa các đối tượng không có tầm vực application hay session thì Server sẽ trả về lỗi. Server bỏ qua những Script có chứa những thành phần HTML mà các biến cố application và session không thể xử lý như trong một file HTML thông thường.
Những Script trong File Global.asa có thể được viết bởi bất cứ ngôn gữ nào có hổ trợ Script. Nếu các đoạn Script được viết bởi cùng một ngôn ngữ thì có thể kết hợp chúng trong một tag duy nhất.
Khi chúng ta thay đổi File Global.asa và ghi lại nó thì server hoàn tất việc xử lý những yêu cầu ứng dụng hiện thời trước khi nó biên dịch lai File Global.asa, trong khoảng thời gian này server từ chối các yêu cầu khác và ra thông báo :
“ The repuest cannot be processed while the application is being restarted”.
Sau khi những request hiện tại được xử lý xong, server xóa bỏ tất cả các session đang chạy, gọi biến cố Session_OnEnd tương ứng với mỗi Session mà nó xóa, tiếp theo gọi biến cố Application_OnEnd. File Global.asa được biên dịch lại. Request của user tiếp theo sẽ khởi động ứng dụng trở lại ( gọi biến cố Application_OnStart).
Tuy nhiên khi lưu lại những file được include trong Global.asa thì không gây nên biến cố này, muốn khởi động lại ứng dụng phải lưu lại File Global.asa.
Những thủ tục định nghĩa trong Global.asa chỉ có thể gọi từ các Script trong các biến cố : Application_OnStart, Application_OnEnd, Session_OnStart, Session_OnEnd. Các thủ tục này không thể gọi từ các trang ASP trong ứng dụng dựa trên ASP.
Để “Shase”(chia sẽ) các thủ tục giữa các file ASP khác nhau trong một ứng dụng, cần định nghĩa chúng trong một file riêng rồi dùng lệnh Server-Side Include (SSI ) để chèn chúng vào trong trang ASP có gọi thủ tục đó. Những file include thường có phần mở rộng là .inc.
Các ví dụ về File Global.asa trong phần này dùng VBScript như là ngôn ngữ Script chính, mặc dù như đã nói các Script có thể viết bằng nhiều ngôn ngữ khác (ví dụ Jscript....).
2.4.1.1 Những biến cố Application
Applicatin_OnStart, Application_OnEnd.
+ Application_OnStart:
Xảy ra trước khi session đầu tiên được tạo, nghĩa là trước biến cố Session_OnStart, khi có yêu cầu đầu tiên đến một trang ASP của ứng dụng. Chỉ có các đối tượng Application hay Server Build-in là có thể sử dụng. Các tham khảo đến đối tượng Session, Request, Response sẽ gây ra lỗi.
Cú pháp :
Sub Application_OnStart
......
End Sub
Tham số : ScriptLanguage: chỉ định ngôn ngữ Script dùng để viết Script.
Thường sử dụng biến cố này để khởi động một số biến toàn cục, thông tin hệ thống.
Ví dụ:
Sub Application_OnStart
Application (“ Server”) = “ studentcc”
Application (“ arrayTopicName”) = arrayTopicName
Application (“AccessNumeber”) = Rs.Fields (“AccessNumeber”)
End Sub
Rs . Fields(“AccessNumber”) : là số lần truy cập đến ứng dụng, được ghi lại trong cơ sở dữ liệu.
+ Application_OnEnd:
Xảy ra trước khi đóng ứng dụng, sau khi biến cố Session_OnEnd cuối cùng xảy ra. Chỉ có các đối tượng Application hay ServerBuild-in là có thể sử dụng.
Cú pháp
Sub Application_OnEnd
......
End Sub
Tham số : ScriptLanguage: chỉ định ngôn ngữ Script dùng để viết Script.
Thường sử dụng biến cố này để xóa, cập nhật lại các thông tin hệ thống
Ví dụ:
Sub Application_OnEnd
Rs . Fields (‘ AccessNumber”) = Application (“AccessNumber”)
End sub
2.4.1.2 Những biến cố Session
Web Server tự động tạo một Session khi một trang web trong ứng dụng được yêu cầu từ user mà người này chưa có Session. Server sẽ xóa bỏ một Session khi nó Time-out hoặc method Abandon được gọi. Những biến cố Session: Session_OnStart, Session_OnEnd.
+ Session_OnStart:
Xảy ra khi Server tạo một Session mới. Bạn phải khai báo các biến có tầm vực Session trong biến cố. Ta có thể tham khảo tất cả những đối tượng Build-in trong biến cố này.
Cú Pháp :
Sub Session_OnStart
......
End Sub
Tham số : ScriptLanguage: chỉ định ngôn ngữ Script dùng để viết Script.
Ta có thể gọi phương thức Redirect trong biến cố Session_OnStart, chẳng hạn để bảo đảm rằng Người sử dụng (NSD) luôn bắt đầu từ một trang duy nhất. Khi NSD muốn mở ngay một trang khác nhau trang được chỉ định thì redirect sang đã chỉ định. Tuy nhiên cần chú ý là những Brower không hổ trợ cookies thì nó sẽ không lưu lại SessionID của nó nên bất cứ khi nào mở một trang mới thì Server lại tạo một Session mới.
Ví dụ:
Sub Session_OnStart
Application .Lock
Application (“AccessNumeber”) = Application (“AccessNumeber”) +1
Application .unlock
End Sub
+ Session_OnEnd:
Xảy ra khi một session được đóng hoặc TimeOut. Dùng biến cố này để xóa các biến đã đặt trong quá trình sử dụng của User
Cú Pháp :
Sub Session_OnEnd
......
End Sub
2.4.1.3 Khai báo các
Bạn có thể tạo các đối tượng có tầm vức Session hay application trong file Global.asa. đối tượng này thực sự được tạo ra khi server xử lý một Script có tham khảo đến nó.
Cú pháp ;
< OBJECT RUNNAT = Server SCOPE = Scope ID = Identìier
{ PROGID = ProgID | CLASSID = “ ClassID”}>
..............
Tham số :
Scope: chỉ định tầm vực của đối tượng, là “ session “ hay “application”
Identifier : tên instance của đối tượng
ProgID : một định danh được kết hợp với định danh class. ProgID hay ClassID phải được chỉ định trong khai báo
ClassID : danh định duy nhất cho một đối tượng lớp OLE. ProgID hay ClassID phải được chỉ định trong khai báo .
2.4.2 Sử dụng các ngôn ngữ Script khác nhau và Scripting Engine
Scripting language nằm ở khoảng ngôn ngữ siêu văn bản (HTML) và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BAOCAOTN.DOC
- CHUONGTRINH.rar