1. Bối cảnh và lý do thực hiện đề tài
Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng và những khả năng mạnh mẽ thì những vấn đề của hệ thống thông tin cũng làm cho chúng ta nhức đầu cũng không phải là ít, trong đó vấn đề nhạy cảm an toàn thông tin khiến chúng ta quan tâm nhiều hơn cả. Chúng ta cần phải tăng cường khả năng an toàn thông tin để khỏi bị mất mát dữ liệu do các lổ hổng bảo mật hay bị hacker, virus, trojan tấn công
Một trong những giải pháp có thể đáp ứng tốt nhất cho vấn đề này là triển khai hệ thống dò tìm xâm nhập trái phép - Instruction Detect System (IDS). Có hai yêu cầu chính khi triển khai một IDS đó là chi phí cùng với khả năng đáp ứng linh hoạt của nó trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và SNORT có thể đáp ứng rất tốt cả hai yêu cầu này.
Thấy được các chức năng đó của dịch vụ Snort chúng em xin chọn đề tài “Tìm hiểu và khai thác dịch vụ snort” làm đề tài môn học của mình.
2. Phương pháp triển khai đề tài
Nghiên cứu các tài liệu liên quan của hệ điều hành Ubuntu.
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến Snort (khái niệm, chức năng, các luật, cách cài đặt)
Triển khai cài đặt cấu hình server-client trên máy áo.
Chạy và kiểm tra hoạt động của dịch vụ snort
3. Kết cấu của đồ án
Cấu trúc tổ chức của bài báo cáo bao gồm:
Tổng quan về đề tài
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
Chương 2. Thiết kế và xây dựng hệ thống
Chương 3. Triển khai và đánh giá kết quả
Kết luận
Tài liệu tham khảo
42 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5204 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tìm hiểu và khai thác dịch vụ SNORT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BỘ MÔN MẠNG VÀ TRUYỀN THÔNG
¾¾¾¾Â¾¾¾¾
BÁO CÁO MÔN HỌC
CHUYÊN ĐỀ II
§Ò tµi:
TÌM HIỂU VÀ KHAI THÁC DỊCH VỤ SNORT
Sinh viên : Đào Thị Mỵ Châu
Phan Thị Thu Hằng
Nhóm : 78B
Người hướng dẫn : Ts.Nguyễn Tấn Khôi
Đà Nẵng 2011
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1:Các cờ sử dụng với từ khoá flags 28
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1: Mô hình kiến trúc hệ thống Snort 10
Hình 2: Xử lý một gói tin Ethernet 11
Hình 3: Mooddun log và cảnh báo 14
Hình 4: Cấu trúc luật của Snort 18
Hình 5: Header luật của Snort 19
Hình 6: Máy Windowns truy cập vào hệ thống máy Ubuntu 37
Hình 7: Log của snort đực thể hiện thông qua giao diện của BASE, giao thức ICMP 38
Hình 8: Bảng acid_event của database Snort chứa các thông số về ip nguồn, ip đích, thời gian máy windown truy cập vào hệ thống qua gói ICMP 38
Hình 9: Bảng iphdr của database snort chứa version, ip_len, ip_id, ip_ttl, ip_csum của máy windown. 39
Hình 10 39
Hình 11: 40
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1. Bối cảnh và lý do thực hiện đề tài
Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng và những khả năng mạnh mẽ thì những vấn đề của hệ thống thông tin cũng làm cho chúng ta nhức đầu cũng không phải là ít, trong đó vấn đề nhạy cảm an toàn thông tin khiến chúng ta quan tâm nhiều hơn cả. Chúng ta cần phải tăng cường khả năng an toàn thông tin để khỏi bị mất mát dữ liệu do các lổ hổng bảo mật hay bị hacker, virus, trojan tấn công
Một trong những giải pháp có thể đáp ứng tốt nhất cho vấn đề này là triển khai hệ thống dò tìm xâm nhập trái phép - Instruction Detect System (IDS). Có hai yêu cầu chính khi triển khai một IDS đó là chi phí cùng với khả năng đáp ứng linh hoạt của nó trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và SNORT có thể đáp ứng rất tốt cả hai yêu cầu này.
Thấy được các chức năng đó của dịch vụ Snort chúng em xin chọn đề tài “Tìm hiểu và khai thác dịch vụ snort” làm đề tài môn học của mình.
2. Phương pháp triển khai đề tài
Nghiên cứu các tài liệu liên quan của hệ điều hành Ubuntu.
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến Snort (khái niệm, chức năng, các luật, cách cài đặt)
Triển khai cài đặt cấu hình server-client trên máy áo.
Chạy và kiểm tra hoạt động của dịch vụ snort
3. Kết cấu của đồ án
Cấu trúc tổ chức của bài báo cáo bao gồm:
Tổng quan về đề tài
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
Chương 2. Thiết kế và xây dựng hệ thống
Chương 3. Triển khai và đánh giá kết quả
Kết luận
Tài liệu tham khảo
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Giới thiệu
Giới thiệu IDS:
Khái niệm:
IDS – Intrucsion Detection System / Hệ thống phát hiện xâm nhập.
IDS là một hệ thống phòng chống, nhằm phát hiện các hành động tấn công vào một mạng. Mục đích của nó là phát hiện và ngăn ngừa các hành động phá hoại đối với vấn đề bảo mật hệ thống, hoặc những hành động trong tiến trình tấn công như sưu tập, quét các cổng. Một tính năng chính của hệ thống này là cung cấp thong tin nhận biết về những hành động không bình thường và đưa ra các cảnh báo, thông báo cho quản trị viên mạng khóa các kết nối đang tấn công này. Thêm vào đó công cụ IDS cũng có thể phân biệt giữa những tấn công bên trong từ bên trong tổ chức (từ chính nhân viên hoặc khách hàng) và tấn công từ bên ngoài (tấn công từ hacker).
Phân loại IDS:
Cách thông thường nhất để phân loại các hệ thống IDS là dựa vào đặc điểm của nguồn dữ liệu thu thập được. Trong trường hợp này, các hệ thống IDS được chia làm các loại sau:
Host-based IDS (HIDS): Sử dụng dữ liệu kiểm tra từ một máy trạm đơn để phát hiện xâm nhập. Chức năng chính là bảo vệ tài nguyên trên máy chủ và một số hệ thống như WebHost, Mailhost…
Network-based IDS (NIDS): Sử dụng dữ liệu trên toàn bộ lưu thông mạng, cùng với dữ liệu kiểm tra từ một hoặc một vài máy trạm để phát hiện xâm nhập. Nhiệm vụ là ngăn chặn và quản lý gói tin trước khi chuyển vào hệ thống.
Giới thiệu về SNORT:
Snort là một sản phẩm mã nguồn mở được phát triển nhằm phát hiện những xâm nhập trái phép vào hệ thống bởi những quy tắc hay luật đã được thiết lập sẵn, những thiết lập này dựa vào những dấu hiệu, giao thức và sự dị thường.
Snort sử dụng các luật được lưu trữ trong các file text, có thể được chỉnh sửa bởi người quản trị. Các luật được nhóm thành các kiểu. Các luật thuộc về mỗi loại được lưu trong các file khác nhau. File cấu hình chính của Snort là snort.conf. Snort đọc những luật này vào lúc khởi tạo và xây dựng cấu trúc dữ liệu để cung cấp các luật để bắt giữ mẫu vi phạm. Tìm ra các dấu hiệu và sử dụng chúng trong các luật là một vấn đề đòi hỏi sự tinh tế, vì càng sử dụng nhiều luật thì năng lực xử lý càng được đòi hỏi để thu thập dữ liệu trong thực tế. Snort có một tập hợp các luật được định nghĩa trước để phát hiện các hành động xâm nhập và các quản trị viên cũng có thể thêm vào các luật của chính mình. Quản trị viên cũng có thể xóa một vài luật đã được tạo trước để tránh việc báo động sai.
Snort bao gồm một hoặc nhiều sensor và một server CSDL chính.Các Sensor có thể được đặt trước hoặc sau firewall:
Giám sát các cuộc tấn công vào firewall và hệ thống mạng
Có khả năng ghi nhớ các cuộc vượt firewall thành công
Cơ sở dữ liệu luật của Snort đã lên tới 2930 luật và được cập nhật thường xuyên bởi một cộng đồng người sử dụng. Snort có thể chạy trên nhiều hệ thống nền như Windows, Linux, OpenBSD, FreeBSD, NetBSD, Solaris, HP-UX, AIX, IRIX, MacOS.
Bên cạnh việc có thể hoạt động như một ứng dụng thu bắt gói tin thông thường, Snort còn có thể được cấu hình để chạy như một NIDS. Snort hỗ trợ khả năng hoạt động trên các giao thức sau: Ethernet, 802.11,Token Ring, FDDI, Cisco HDLC, SLIP, PPP, và PF của OpenBSD.
Kiến trúc của Snort:
Snort được chia thành nhiều thành phần. Những thành phần này làm việc với nhau để phát hiện các cách tấn công cụ thể và tạo ra output theo một định dạng được đòi hỏi. Một IDS dựa trên Snort bao gồm các thành phần chính sau đây:
Packet Decoder
Preprocessor
Dectection Engine
Logging và Alerting System
Output Modules
Kiến trúc của Snort được mô tả trong hình sau:
Hình 1: Mô hình kiến trúc hệ thống Snort
Khi Snort hoạt động nó sẽ thực hiện việc lắng nghe và thu bắt tất cả các gói tin nào di chuyển qua nó. Các gói tin sau khi bị bắt được đưa vào Môđun Giải mã gói tin. Tiếp theo gói tin sẽ được đưa vào môđun Tiền xử lý, rồi môđun Phát hiện. Tại đây tùy theo việc có phát hiện được xâm nhập hay không mà gói tin có thể được bỏ qua để lưu thông tiếp hoặc được đưa vào môđun Log và cảnh báo để xử lý. Khi các cảnh báo được xác định môđun Kết xuất thông tin sẽ thực hiện việc đưa cảnh báo ra theo đúng định dạng mong muốn. Sau đây ta sẽ đi sâu vào chi tiết hơn về cơ chế hoạt động và chức năng của từng thành phần.
Modun giải mã gói tin - Packet Decoder
Snort sử dụng thư viện pcap để bắt mọi gói tin trên mạng lưu thông qua hệ thống. Hình sau mô tả việc một gói tin Ethernet sẽ được giải mã thế nào:
Hình 2: Xử lý một gói tin Ethernet
Một gói tin sau khi được giải mã sẽ được đưa tiếp vào môđun tiền xử lý. Nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống này là phân tích gói dữ liệu thô bắt được trên mạng và phục hồi thành gói dữ liệu hoàn chỉnh ở lớp application, làm input cho hệ thống dectection engine.
Quá trình phục hồi gói dữ liệu được tiến hành từ lớp Datalink cho tới lớp Application theo thứ tự của Protocol Stack.
Mô đun tiền xử lý - Preprocessors
Môđun tiền xử lý là một môđun rất quan trọng đối với bất kỳ một hệ thống IDS nào để có thể chuẩn bị gói dữ liệu đưa và cho môđun Phát hiện phân tích. Ba nhiệm vụ chính của các môđun loại này là:
Kết hợp lại các gói tin: Khi một lượng dữ liệu lớn được gửi đi, thông tin sẽ không đóng gói toàn bộ vào một gói tin mà phải thực hiện việc phân mảnh, chia gói tin ban đầu thành nhiều gói tin rồi mới gửi đi. Khi Snort nhận được các gói tin này nó phải thực hiện việc ghép nối lại để có được dữ liệu nguyên dạng ban đầu, từ đó mới thực hiện được các công việc xử lý tiếp. Như ta đã biết khi một phiên làm việc của hệ thống diễn ra, sẽ có rất nhiều gói tin đuợc trao đổi trong phiên đó. Một gói tin riêng lẻ sẽ không có trạng thái và nếu công việc phát hiện xâm nhập chỉ dựa hoàn toàn vào gói tin đó sẽ không đem lại hiệu quả cao. Module tiền xử lý stream giúp Snort có thể hiểu được các phiên làm việc khác nhau (nói cách khác đem lại tính có trạng thái cho các gói tin) từ đó giúp đạt được hiệu quả cao hơn trong việc phát hiện xâm nhập.
Giải mã và chuẩn hóa giao thức (decode/normalize): công việc phát hiện xâm nhập dựa trên dấu hiệu nhận dạng nhiều khi bị thất bại khi kiểm tra các giao thức có dữ liệu có thể được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Ví dụ: một web server có thể chấp nhận nhiều dạng URL như URL được viết dưới dạng mã hexa/Unicode, URL chấp nhận cả dấu \ hay / hoặc nhiều ký tự này liên tiếp cùng lúc. Chẳng hạn ta có dấu hiệu nhận dạng “scripts/iisadmin”, kẻ tấn công có thể vượt qua được bằng cách tùy biến các yêu cấu gửi đến web server như sau:
“scripts/./iisadmin”
“scripts/examples/../iisadmin”
“scripts\iisadmin”
“scripts/.\iisadmin”
Hoặc thực hiện việc mã hóa các chuỗi này dưới dạng khác. Nếu Snort chỉ thực hiện đơn thuần việc so sánh dữ liệu với dấu hiệu nhận dạng sẽ xảy ra tình trạng bỏ sót các hành vi xâm nhập. Do vậy, một số môđun tiền xử lý của Snort phải có nhiệm vụ giải mã và chỉnh sửa, sắp xếp lại các thông tin đầu vào này để thông tin khi đưa đến môđun phát hiện có thể phát hiện được mà không bỏ sót. Hiện nay Snort đã hỗ trợ việc giải mã và chuẩn hóa cho các giao thức: telnet, http, rpc, arp.
Phát hiện các xâm nhập bất thường (nonrule /anormal): các plugin tiền xử lý dạng này thường dùng để đối phó với các xâm nhập không thể hoặc rất khó phát hiện được bằng các luật thông thường hoặc các dấu hiệu bất thường trong giao thức. Các môđun tiền xử lý dạng này có thể thực hiện việc phát hiện xâm nhập theo bất cứ cách nào mà ta nghĩ ra từ đó tăng cường thêm tính năng cho Snort. Ví dụ, một plugin tiền xử lý có nhiệm vụ thống kê thông lượng mạng tại thời điểm bình thường để rồi khi có thông lượng mạng bất thường xảy ra nó có thể tính toán, phát hiện và đưa ra cảnh báo (phát hiện xâm nhập theo mô hình thống kê). Phiên bản hiện tại của Snort có đi kèm hai plugin giúp phát hiện các xâm nhập bất thường đó là portscan và bo (backoffice). Portcan dùng để đưa ra cảnh báo khi kẻ tấn công thực hiện việc quét các cổng của hệ thống để tìm lỗ hổng. Bo dùng để đưa ra cảnh báo khi hệ thống đã bị nhiễm trojan backoffice và kẻ tấn công từ xa kết nối tới backoffice thực hiện các lệnh từ xa.
Môđun phát hiện- Detection Engine
Đây là môđun quan trọng nhất của Snort. Nó chịu trách nhiệm phát hiện các dấu hiệu xâm nhập. Môđun phát hiện sử dụng các luật được định nghĩa trước để so sánh với dữ liệu thu thập được từ đó xác định xem có xâm nhập xảy ra hay không. Rồi tiếp theo mới có thể thực hiện một số công việc như ghi log, tạo thông báo và kết xuất thông tin.
Một vấn đề rất quan trọng trong môđun phát hiện là vấn đề thời gian xử lý các gói tin: một IDS thường nhận được rất nhiều gói tin và bản thân nó cũng có rất nhiều các luật xử lý. Có thể mất những khoảng thời gian khác nhau cho việc xử lý các gói tin khác nhau. Và khi thông lượng mạng quá lớn có thể xảy ra việc bỏ sót hoặc không phản hồi được đúng lúc. Khả năng xử lý của môđun phát hiện dựa trên một số yếu tố như: số lượng các luật, tốc độ của hệ thống đang chạy Snort, tải trên mạng. Một số thử nghiệm cho biết, phiên bản hiện tại của Snort khi được tối ưu hóa chạy trên hệ thống có nhiều bộ vi xử lý và cấu hình máy tính tương đối mạnh thì có thể hoạt động tốt trên cả các mạng cỡ Giga.
Một môđun phát hiện cũng có khả năng tách các phần của gói tin ra và áp dụng các luật lên từng phần nào của gói tin đó. Các phần đó có thể là:
IP header
Header ở tầng giao vận: TCP, UDP
Header ở tầng ứng dụng: DNS header, HTTP header, FTP header, …
Phần tải của gói tin (bạn cũng có thể áp dụng các luật lên các phần dữ liệu được truyền đi của gói tin)
Một vấn đề nữa trong Môđun phát hiện đó là việc xử lý thế nào khi một gói tin bị phát hiện bởi nhiều luật. Do các luật trong Snort cũng được đánh thứ tự ưu tiên, nên một gói tin khi bị phát hiện bởi nhiều luật khác nhau, cảnh báo được đưa ra sẽ là cảnh báo ứng với luật có mức ưu tiên lớn nhất.
Môđun log và cảnh báo - Logging and Alerting System
Tùy thuộc vào việc môđun Phát hiện có nhận dạng đuợc xâm nhập hay không mà gói tin có thể bị ghi log hoặc đưa ra cảnh báo. Các file log là các file text dữ liệu trong đó có thể được ghi dưới nhiều định dạng khác nhau chẳng hạn tcpdump.
Hình 3: Mooddun log và cảnh báo
Mô đun kết xuất thông tin - Output Module
Môđun này có thể thực hiện các thao tác khác nhau tùy theo việc bạn muốn lưu kết quả xuất ra như thế nào. Tùy theo việc cấu hình hệ thống mà nó có thể thực hiện các công việc như là:
Ghi log file
Ghi syslog: syslog và một chuẩn lưu trữ các file log được sử dụng rất nhiều trên các hệ thống Unix, Linux.
Ghi cảnh báo vào cơ sở dữ liệu.
Tạo file log dạng xml: việc ghi log file dạng xml rất thuận tiện cho việc trao đổi và chia sẻ dữ liệu.
Cấu hình lại Router, firewall.
Gửi các cảnh báo được gói trong gói tin sử dụng giao thức SNMP. Các gói tin dạng SNMP này sẽ được gửi tới một SNMP server từ đó giúp cho việc quản lý các cảnh báo và hệ thống IDS một cách tập trung và thuận tiện hơn.
Gửi các thông điệp SMB (Server Message Block) tới các máy tính Windows.
Nếu không hài lòng với các cách xuất thông tin như trên, ta có thể viết các môđun kết xuất thông tin riêng tuỳ theo mục đích sử dụng.
Các chế độ thực thi của Snort:
Sniff mode
Ở chế độ này, Snort hoạt động như một chương trình thu thập và phân tích gói tin thông thường. Không cần sử dụng file cấu hình, các thông tin Snort sẽ thu được khi hoạt động ở chế độ này:
Date and time.
Source IP address.
Source port number.
Destination IP address.
Destination port.
Transport layer protocol used in this packet.
Time to live or TTL value in this packet.
Type of service or TOS value.
Packer ID.
Length of IP header.
IP payload.
Don’t fragment or DF bit is set in IP header.
Two TCP flags A and P are on.
TCP sequence number.
Acknowledgement number in TCP header.
TCP Window field.
TCP header length.
Packet logger mode
Khi chạy ở chế độ này, Snort sẽ tập hơp tất cả các packet nó thấy được và đưa vào log theo cấu trúc phân tầng. Nói cách khác, một thư mục mới sẽ được tạo ra ứng với mỗi địa chỉ nó bắt được, và dữ liệu sẽ phụ thuộc vào địa chỉ mà nó lưu trong thư mục đó. Snort đặt các packet vào trong file ASCII, với tên liên quan đến giao thức và cổng. Sự sắp xếp này dễ dàng nhận ra ai đang kết nối vào mạng của mình và giao thức, cổng nào đang sử dụng. Đơn giản sử dụng ls-R để hiện danh sách các thư mục.
Tuy nhiên sự phân cấp này sẽ tạo ra nhiều thư mục trong giờ cao điểm nên rất khó để xem hết tất cả thư mục và file này. Nếu một người nào đó thực hiện việc quét mạng của bạn và ánh xạ tất cả 65536 cổng TCp cũng như 65536 cổng UDP, bạn sẽ đột ngột có hơn 131000 file trong một thư mục đơn.
Log với dạng nhị phân (binary) tất cả những gì có thể đọc được bời Snort, nó làm tăng đốc độ khả năng bắt gói tin của Snort. Hầu hết các hệ thống có thể capture và log ở tốc độ 100Mbps mà không có vấn đề gì.
Để log packet ở chế độ nhị phân, sự dụng cờ -b:
#Snort -b -l /usr/local/log/Snort/temp.log
Khi đã capture, ta có thể đọc lại file mới vừa tạo ra ngay với cỡ -r và phần hiển thị giống như ở mode sniffer:
#Snort -r /usr/local/log/Snort/temp.log
Trong phần này Snort không giới hạn để dọc các file binary trong chế độ sniffer. Ta có thể chạy Snort ở chế độ NIDS với việc set các rule hoặc filters để tìm những traffic nghi ngờ.
NIDS mode
Snort thường được sử dụng như một NIDS. Nó nhẹ, nhanh chóng, hiệu quả và sử dụng các rule để áp dụng lên gói tin. Khi phát hiện có dấu hiệu tấn công ở trong gói tin thì nó sẽ ghi lại và tạo thông báo. Khi dùng ở chế độ này phải khai báo file cấu hình cho Snort hoạt động. Thông tin về thông báo khi hoạt động ở chế độ này:
Fast mode: Date and time, Alert message, Source and destination IP address, Source and destination ports, Type of packet.
Full mode: Gồm các thông tin như chế độ fast mode và thêm một số thông tin sau: TTL value, TOS value, Length of packet header, length of packet,Type of packet, Code of packet, ID of packet, Sequence number.
Bộ luật của Snort:
Giới thiệu
Snort chủ yếu là một IDS dựa trên luật, tuy nhiên các input plug-in cũng tồn tại để phát hiện sự bất thường trong các header của giao thức.
Snort sử dụng các luật được lưu trữ trong các file text, có thể được chỉnh sửa bởi người quản trị. Các luật được nhóm thành các kiểu. Các luật thuộc về mỗi loại được lưu trong các file khác nhau. File cấu hình chính của Snort là snort.conf. Snort đọc những luật này vào lúc khởi tạo và xây dựng cấu trúc dữ liệu để cung cấp các luật để bắt giữ dữ liệu. Tìm ra các dấu hiệu và sử dụng chúng trong các luật là một vấn đề đòi hỏi sự tinh tế, vì bạn càng sử dụng nhiều luật thì năng lực xử lý càng được đòi hỏi để thu thập dữ liệu trong thực tế. Snort có một tập hợp các luật được định nghĩa trước để phát hiện các hành động xâm nhập và bạn cũng có thể thêm vào các luật của chính bạn. Bạn cũng có thể xóa một vài luật đã được tạo trước để tránh việc báo động sai.
Cũng giống như virus, hầu hết các hoạt động tấn công hay xâm nhập đều có các dấu hiệu riêng. Các thông tin về các dấu hiệu này sẽ được sử dụng để tạo nên các luật cho Snort. Thông thường, các bẫy (honey pots) được tạo ra để tìm hiểu xem các kẻ tấn công làm gì cũng như các thông tin về công cụ và công nghệ chúng sử dụng. Và ngược lại, cũng có các cơ sở dữ liệu về các lỗ hổng bảo mật mà những kẻ tấn công muốn khai thác. Các dạng tấn công đã biết này được dùng như các dấu hiệu để phát hiện tấn công xâm nhập. Các dấu hiệu đó có thể xuất hiện trong phần header của các gói tin hoặc nằm trong phần nội dung của chúng. Hệ thống phát hiện của Snort hoạt động dựa trên các luật (rules) và các luật này lại được dựa trên các dấu hiệu nhận dạng tấn công. Các luật có thể được áp dụng cho tất cả các phần khác nhau của một gói tin dữ liệu .
Một luật có thể được sử dụng để tạo nên một thông điệp cảnh báo, log một thông điệp hay có thể bỏ qua một gói tin.
Cấu trúc luật của Snort
Hãy xem xét một ví dụ đơn giản :
alert tcp 192.168.2.0/24 23 -> any any (content:”confidential”; msg: “Detected confidential”)
Ta thấy cấu trúc của một luật có dạng như sau:
Hình 4: Cấu trúc luật của Snort
Diễn giải:
Tất cả các Luật của Snort về logic đều gồm 2 phần: Phần header và phần Option.
Phần Header chứa thông tin về hành động mà luật đó sẽ thực hiện khi phát hiện ra có xâm nhập nằm trong gói tin và nó cũng chứa các tiêu chuẩn để áp dụng luật với gói tin đó.
Phần Option chứa một thông điệp cảnh báo và các thông tin về các phần của gói tin dùng để tạo nên cảnh báo. Phần Option chứa các tiêu chuẩn phụ thêm để đối sánh luật với gói tin. Một luật có thể phát hiện được một hay nhiều hoạt động thăm dò hay tấn công. Các luật thông minh có khả năng áp dụng cho nhiều dấu hiệu xâm nhập.
Dưới đây là cấu trúc chung của phần Header của một luật Snort:
Hình 5: Header luật của Snort
Action: là phần qui định loại hành động nào được thực thi khi các dấu hiệu của gói tin được nhận dạng chính xác bằng luật đó. Thông thường, các hành động tạo ra một cảnh báo hoặc log thông điệp hoặc kích hoạt một luật khác.
Protocol: là phần qui định việc áp dụng luật cho các packet chỉ thuộc một giao thức cụ thể nào đó. Ví dụ như IP, TCP, UDP …
Address: là phần địa chỉ nguồn và địa chỉ đích. Các địa chỉ có thể là một máy đơn, nhiều máy hoặc của một mạng nào đó. Trong hai phần địa chỉ trên thì một sẽ là địa chỉ nguồn, một sẽ là địa chỉ đích và địa chỉ nào thuộc loại nào sẽ do phần Direction “->” qui định.
Port: xác định các cổng nguồn và đích của một gói tin mà trên đó luật được áp dụng.
Direction: phần này sẽ chỉ ra đâu là địa chỉ nguồn, đâu là địa chỉ đích.
Ví dụ:
alert icmp any any -> any any (msg: “Ping with TTL=100”;ttl: 100;)
Phần đứng trước dấu mở ngoặc là phần Header của luật còn phần còn lại là phần Option. Chi tiết của phần Header như sau:
Hành