Nguồn gốc mọ i sự biến đổ i về mô i trườ ng sống đang xảy ra hiệ n nay trên thế
giớ i cũ ng như ở nước ta là các hoạ t độ ng kinh tế , phá t triể n của xã hộ i loà i ngườ i. Cá c
hoạ tđộ ng nà y mộ t mặ t làm cả i thiệ n chấ t lượ ng cuộc số ng của con ngườ i , mặ tkhác lạ i
đang tạ o rahàng loạ tkhan hiếm , cạn kiệ t nguồ n tà inguyê n thiên nhiê n,gây ô nhiễm ,
suy thoá i mô i trường khắp mọ i nơi trên thế giớ i. Vì vậy, bả o vệ mô i trường trở thành
vấn đề toàn cầu, là quốc sách của hầu hế t cácnước trên thếgiớ i.
Việ t Nam đang trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá , hiện đạ i hoá đấ t
nước. Nề n kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy sự phá t triển của mọ i ngành kinh tế ,
trong đó có ngành chế biến lương thực , thực phẩm tạo ra các sản phẩm có giá trị phụ c
vụ cho nhu cầu tiê u dùng trong nước cũng như xuấ t khẩu. Tuy nhiên, ngành này cũ ng
tạo ra mộ t lượ ng lớn chấ t thả i rắ n, khí, lỏng là mộ t trong nhữ ng nguyên nhâ n gâ y ra ô
nhiễm mô i trường chung của đấ t nước. Cùng vớ i ngà nh công nghiệp chế biế n lương
thực, thực phẩm thì ngà nh giế t mổ cũng trong tình trạng đó . Do đặc điểm công nghệ
của ngà nh,ngành giế t mổ đã sử dụ ng mộ t lượng nước khá lớ n trong quá trình chếbiến.
Vì vậy, ngành đã thả i ra mộ t lượ ng nước khá lớn cùng vớ i các chấ t thả i rắn, khí thả i.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước do ngành chế biến thuỷ sản thả i trực tiếp ra mô i trườ ng
đang là mố iquan tâm hàng đầu của các nhà quản lý mô i trường. Nước bị nhiễ m bẩ n sẽ
ả nh hưở ng đế n con ngườ ivà sự sống của các loà i thuỷ sinh cũngnhư các loà iđộng thự c
vậ t sống gầ n đó . Vì vậy, việc nghiê n cứu xử lý nước thả i ngành giế t mổ cũ ng như cá c
T AILIEU CHI MANG TINH CHA T THAM KHAO
MOITRUONGXANH.INFO
Đồ á n xử lý nướ c thả i giế t mổ
2
ngành cô ng nghiệ p khác là mộ t yêu cầu cấp thiế t đặ t ra không chỉ đố i vớ i những nhà
làm công tácbả o vệ mô i trường mà cò n cho tấ t cả mọ i ngườ i chú ng ta.
10 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3746 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đồ án Tính toán thiết kế hệ thống xử lý nước thải khu giết mổ gia súc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cục bảo vệ môi trường Thụy điển
Các lò giết mổ gia súc
Các vấn đề về môi trường
Các vấn đề về môi trường của các lò mổ chủ yếu liên quan đến các chất thải vào nước. Các vấn đề khác do việc thải ra các mùi khó chịu, tiếng ồn, chất thải và các phủ tạng của gia súc.
Nước Nước thải thường bị ô nhiễm nặng do các thành phần hữu cơ như máu, mỡ, protein cũng như Nitơ, phospho, các chất tẩy rửa và chất bảo quản.
Không khí Vấn đề nảy sinh chủ yếu là các mùi khó chịu từ các chuồng gia súc, phân, lòng ruột và từ xử lý nước thải. Thêm vào đó là các chất thải từ trạm năng lượng, thông khí, rò rỉ chất làm lạnh ( ví dụ như CFC, amoniac) từ các thiết bị lạnh và khí xả từ các phương tiện vận tải.
Tiếng ồn Tiếng ồn chủ yếu gây ra do quạt thông gió, thiết bị lạnh, do vận chuyển và do súc vật bị nhốt.
Chất thải Chất thải tạo ra gồm có các chất thải từ quá trình giết gia súc cũng như cặn, dầu, muối thải. Các chất thải độc hại với môi trường như dầu thải cũng có thể xuất hiện ở đây. Các sản phẩm dư thừa gồm có phân gia súc, lòng ruột, máu, da động vật, lông, và các thành phần hữu cơ khác.
Quy trình và hoá chất
Ðộng vật bị giết thịt ở các lò mổ gồm có trâu bò, bê, ngựa, cừu, lợn. Các động vật được chuyển đến chuồng nuôi ở các lò mổ. Bắt đầu quá trình giết thịt gia súc, bao gồm giết, hứng máu, bỏ đầu và chân, mổ bụng, moi ruột ( loại bỏ các phủ tạng bên trong ), xẻ thịt, lọc thịt. Trong trường hợp mổ lợn, còn thêm bước dội nước sôi, cạo lông, thui, chải rửa.
Các quy trình phụ gồm có làm lòng ruột, xát muối.
Các hoá chất được sử dụng trong quy trình gồm có chất tẩy rửa, chất bảo quản, chất làm lạnh, hoá chất để làm sạch nước, dầu nhờn.
Công nghệ môi trường
Vị trí Khoảng cách an toàn từ các lò mổ đến khu dân cư là 500m. Trong những trường hợp nhất định, khoảng cách này có thể cần phải tăng lên hay giảm đi. Với những lò mổ xung quanh khu dân cư, cần quy định một khoảng cách thích hợp tuỳ từng trường hợp.
Nước Thông thường các lò mổ sử dụng các biện pháp làm sạch như lọc, tách mỡ và cặn, thông khí, cân bằng và đôi khi còn có biện pháp tinh chế hóa học và sinh học.
Không khí Ðể tránh tạo ra những mùi khó chịu, người ta sử dụng biện pháp xử lý qua màng lọc, ngưng tụ, xử lý qua than lọc, thiêu huỷ trực tiếp hay dùng chất xúc tác, lọc sinh học.
Tiếng ồn Sử dụng thiết bị cản âm, giới hạn hoạt động trong thời gian nhất định, dùng c ác thiết bị lạnh đóng kín hoặc được cách ly hoàn toàn, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên các quạt thông gió và những thiết bị tương tự.
Chất thải Các chất thải độc hại cần được vận chuyển bằng những phương tiện được phép và cất trữ ở những khu vực cho phép.
Các phế phẩm như phân, các thứ chứa trong lòng ruột cần được xử lý như một nguồn phân compost và/hoặc bón trực tiếp ngoài đồng ruộng. Các sản phẩm khác (lòng ruột, phủ tạng ) cần được chế biến thành thức ăn chăn nuôi hoặc các sản phẩm tương tự. Trong những trường hợp cụ thể, các sản phẩm này có thể được nghiền ra hoặc chuyển tới bãi để chiết gas trong các thùng chứa ở mẫu thử xử lý nước thải hoặc một loại nhà máy gas sinh học khác.
Việc thải phân phải tuân theo những quy định phù hợp. Những quy định này được miêu tả chi tiết hơn ở tài liệu hướng dẫn Jordbruk về nông nghiệp.
Ðiều kiện đổ chất thải
Nước Khi đưa nước thải đến nhà máy xử lý cần tuân theo các giá trị sau:
Thể tích nước thải 3 m3/ tấn thịt gia súc giết mổ
BOD7 10 kg/tấn thịt gia súc giết mổ
Tổng lượng Nitơ 100 mg/l
Tổng lượng phospho 10 mg/l
Chất rắn lơ lửng 100 mg/l
Chất béo 50-150 mg/l
pH 6,5-10
Không khí Cần đề ra biện pháp để chống các mùi khó chịu.
Ðể tránh mùi khó chịu từ chất thải và lòng ruột, cần miêu tả các điều kiện về việc xử lý chúng bằng một phương pháp an toàn cho môi trường nhu cất trữ chúng ở những khu vực trong nhà và được làm lạnh.
Tiếng ồn Mức độ tiếng ồn từ các hoạt động không được vượt quá mức độ do Cục bảo vệ môi trường Thụy Ðiển chỉ đạo.
Giám sát
Dưới đây là ví dụ về những gì cần được kiểm tra trong quá trình giám sát:
o Trên tất cả các sàn thoát nước có rổ lọc không?
o Có thể giảm được lượng nước ? Trong khâu làm sạch có sử dụng thiết bị áp suất cao không?
o Các thiết bị tinh chế có hoạt động tốt không?
o Các chất thải rắn và lòng ruột có được dồn về một nơi khô ráo không ?
o Có thể cải thiện được việc vận chuyển lòng ruột hoặc các phủ tạng trong khâu làm lòng không ?
o Phân gia súc có tập trung ở một nơi được phép không?
o Chất thải là máu được vận chuyển như thế nào ?
o Có các mùi khó chịu bay ra từ lò mổ không?
o Những chất tẩy rửa nào được sử dụng ? Có tuân theo quy định của Cục bảo vệ môi trường không?
o Các hoá chất có được vận chuyển một cách hợp lý không ?
o Chức năng giám sát của công ty ra sao? Ví dụ kiểm soát hoạt động, ghi chép hồ sơ sổ sách.
Các lò giết mổ gia súc
Ngành công nghiệp
Theo phụ lục của sắc lệnh Bảo vệ môi trường, các cơ sở giết mổ gia súc với sản lượng từ 5000 tấn /năm trở lên phải xin giấy phép hoạt động. Các cơ sở có sản lượng từ 5 tấn /năm đến 5000 tấn /năm phải báo cáo với cơ quan chịu trách nhiệm quản lý sức khoẻ và bảo vệ môi trường của địa phương.
Ngành công nghiệp thực phẩm Thụy Ðiển, trong đó có ngành giết mổ gia súc gần đây đang tiến hành hợp lý hoá cơ cấu toàn bộ. Quá trình này chịu ảnh hưởng của những thay đổi về hệ thống quy định giá cũng như các cuộc cạnh tranh của cs cơ sở nước ngoài, trừ khi có những thay đổi trong quan hệ với EU.
Hiện nay, cả Thụy Ðiển có khoảng 50 cơ sở giết mổ gia súc. Việc cung cấp sản phẩm thịt cho thị trường Thụy Ðiển chủ yếu nhờ các cơ sở hợp tác nông nghiệp vốn chiếm 75% thị phần, như được minh họa theo bảng sau:
Thị phần của ngành giết mổ gia súc
Hợp tác nông nghiệp 75%
Các công ty tư nhân 24%
Nhập khẩu 1%
Ngành công nghiệp đang trở nên tập trung hơn và chuyên môn hóa hơn, với số lượng nhà máy ít hơn nhưng quy mô hơn. Người ta dự kiến khuynh hướng này sẽ tiếp tục. Phần lớn việc giết mổ gia súc được tiến hành ở một vài cơ sở lớn như minh họa ở bảng sau:
Số lượng sản xuất Cơ sở
20.000 Tấn 7
5.000 - 20.000 Tấn 12
5 - 5000 Tấn 31
Người ta cũng ước tính có khoảng vài chục cơ sở giết mổ ở xung quanh khu dân cư. Các cơ sở giết mổ gia cầm không được đề cập ở đây.
Quy trình
Sơ đồ 1 và 4 cho thấy quy trình giết mổ trâu bò. Kỹ thuật giết mổ ở các lò mổ khác nhau là rất khác nhau tùy theo công suất cũng như tuổi của nó. ở một cơ sở quy mô lớn và hiện đại thường sử dụng kỹ thuật trong đó những công việc nặng nhọc bằng tay được máy móc thay thế. Ví dụ máy làm ruột, máy xẻ thịt tự động và các máy móc tương tự. Kỹ thuật của các cơ sở hiện đại giúp thu gom lòng ruột và chất thải từ quy trình giết mổ.
Giết mổ trâu bò
Trâu bò được vận chuyển đến chuồng nhốt của lò mổ và bị giữ ở đó đến khi bắt đầu quy trình. Chúng lần lượt bị giết thịt và rút máu sau khi mổ bằng một con dao đặc biệt được sử dụng để rạch mổ, sau đó, máu được cho chảy ra, cùng lúc đó, người ta cho thêm chất chống đông. Sau khi rút hết máu, người ta chặt bỏ đầu, chân, vú, da. Da được làm sạch và đưa đến nhà máy xử lý da. ở đó, người ta xát muối và xén tỉa da, trước khi đem bán.
Lòng ruột và phủ tạng sau khi loại bỏ sẽ được chuyển tới nơi làm lòng ruột. Sau khi đã loại bỏ các tổ chức phủ tạng bên trong, bắt đầu đến khâu xẻ thịt và lọc thịt.
Bảng 1: Sơ đồ quy trình giết mổ trâu bò
Chất thải Phân Máu, chất thải máu Ðầu, lưỡi Chất thải máu Chân Vú và bộ phận sinh dục Da Dạ dày, ruột và các thứ bên trong Tim, gan, phổi... Xương vụn, tủy Mỡ
Vận chuyển đến chuồng nhốt ¯ Giết ¯ Rạch mổ và hứng máu ¯ Chặt bỏ đầu và chế biến đầu ¯ Chặt bỏ chân ¯ Cắt bỏ vú và bộ phận sinh dục ¯ Lột da ¯ Rút bỏ dạ dày, ruột ¯ Rút bỏ tim, gan ¯ Xẻ thịt ¯ Lọc thịt ¯ Phân loại, cân, bảo quản kho lạnh
Nước thải Nước thải chứa phân và nước tiểu Nước thải chứa chất thải máu Nước thải chứa chất thải máu Nước thải Nước thải chứa chất thải máu Nước thải Nước thải
Nước thải từ quá trình làm sạch và việc tẩy uế.
Bảng 2: Sơ đồ xử lý da
Bảng 3: Sơ đồ khâu làm lòng ruột
Bảng 4: Sơ đồ quy trình giết mổ lợn
Chất thải Phân Máu, chất thải máu Lông Móng chân, Lông lợn Chân, tai Dạ dày, ruột và các thứ bên trong Tim, gan, phổi... Mỡ Xương vụn, tủy Loại mỡ
Vận chuyển đến chuồng nhốt ¯ Làm choáng ¯ Rạch mổ và hứng máu ¯ Dội nước sôi ¯ Cạo lông ¯ Cắt bỏ tai và chân ¯ Thui ¯ Cạo và chải rửa ¯ Rút bỏ dạ dày, ruột ¯ Rút bỏ tim, gan ¯ Bỏ mỡ ¯ Xẻ thịt ¯ Lọc thịt ¯ Phân loại, cân, bảo quản kho lạnh
Nước thải Nước thải chứa phân và nước tiểu Nước thải chứa chất thải máu Nước sôi thành nước thải Nước thải chứa lông lợn Nước thải chứa da thui Nước thải Nước thải chứa máu Nước thải chứa xương vụn và tủy Tăng lượng mỡ trong nước thải
Nước thải từ quá trình làm sạch và việc tẩy uế.
Giết mổ lợn (Bảng 4)
Kỹ thuật mổ lợn đã được phát triển và tự động hóa hơn so với kỹ thuật giết mổ trâu bò. Các khâu vân chuyển, nhốt gia súc, rạch mổ, rút máu, loại bỏ tổ chức và làm lòng ruột đều tương tự như đã mô tả ở phần trên. Với giết mổ lợn có thêm các khâu dội nước sôi, cạo lông, thui và chải rửa. Sau khi dội nước sôi, lông và những gì phía ngoài sẽ dễ dàng tróc ra khi cạo. Các lò mổ của Thụy Ðiển sử dụng nhiều quy trình dội nước sôi khác nhau.
Các tác động môi trường
Các chất thải vào nước
Nước thải từ các lò mổ phù hợp với việc xử lý ở nhà máy xử lý nước thải địa phương. Nếu nhà máy xử lý nước thải có công suất phù hợp thì xét theo quan điểm bảo vệ môi trường, không cần có giai đoạn xử lý sinh học tại các lò mổ.
Nước thải từ các lò mổ chứa một lượng lớn các thành phần hữu cơ và Nitơ, cũng như phần còn lại của các chất tẩy rửa. ở những nơi giết mổ cả trâu bò và lợn thì lượng nước thải nhiều hơn và tỷ lệ chất gây ô nhiễm /tấn thịt giết mổ cao hơn những nơi chỉ giết mổ lợn. Nồng độ cao các chất gây ô nhiễm trong nước thải thường có nguồn gốc từ khâu làm lòng và xử lý chất thải máu. Trong máu chứa nhiều chất hữu cơ và có hàm lượng Nitơ rất cao. Vì máu chiếm 6% trọng lượng của động vật sống nên phương pháp xử lý và loại bỏ máu có ý nghĩa rất quan trọng đối với lượng chất gây ô nhiễm được tạo ra. ở những lò mổ có khâu xử lý da, thường có nước muối trộn lẫn với máu đổ vào hệ thống nước thải. Chúng gây khó khăn cho nhà máy xử lý nước thải địa phương.
Khâu làm lòng là một bộ phận của lò mổ và từ đó đã phát sinh ra một lượng lớn nước thải bị ô nhiễm. Có 3 cách khác nhau để xử lý lòng ruột : nạo ruột ướt, nạo ruột khô hoặc không nạo ruột. Những chất chứa bên trong lòng ruột chiếm khoảng 16% trọng lượng sống của trâu bò và khoảng 6% trọng lượng sống của lợn. Nó khoảng 70 kg /trâu bò và 6kg /lợn. Chỉ riêng chất chưa trong dạ dầy bò nặng 30kg. Như đã nói ở trên, khâu làm lòng ruột đã góp một lượng chất ô nhiễm lớn vào nước thải. Ðiều này càng đặc biệt đúng nếu đổ thẳng các thứ chứa trong lòng ruột vào nước thải. Ngay cả nếu các thứ này được thu hồi lại thì nước thải vẫn bị ô nhiễm nghiêm trọng, bởi vì thịt dùng làm thực phẩm phải được rửa sạch. Các chất gây ô nhiễm trong nước gồm có các chất hữu cơ không tan và các chất tạo nên nhũ tương, các chất này không thể tách được bằng cách lọc hoặc lắng cặn.
Nước sôi dội khi cạo lông lợn cũng chứa một lượng chất gây ô nhiễm lớn. Phân và nước giải của gia súc được tạo ra trên các phương tiện vân tải và trong chuồng nhốt.
Nói chung, nước thải bị ô nhiễm được tạo ra trong suốt qua trình sản xuất liên quan đến khâu vệ sinh và rửa.
Dòng nước thải và lượng các chất gây ô nhiễm trong vòng 24h giao động rất nhiều và do đó gây khó khăn cho hoạt động của nhà máy xử lý nước thải. Giá trị pH của nước thải cũng rất dao động.
Nếu nước thải được dẫn đi một khoảng cách xa bằng các đường ống, hydrosulfit có thể được tạo thành.
Giá trị bình thường của nước thải ở các lò mổ gia súc trước khi đưa đến nhà máy xử lý nước thải: (Mức độ lọc, tách mỡ và cặn bẩn)
Thể tích nước thải 3-8 m3/ tấn thịt gia súc giết mổ
BOD7 10-20 kg/tấn thịt gia súc giết mổ
(tương ứng -2000 mg/l)
Tổng lượng Nitơ 100-200 mg/l
Tổng lượng phospho 10-20 mg/l
Chất rắn lơ lửng 100-500 mg/l
Chất béo 50-150 mg/l
pH 6,5-10
Phát thải vào không khí
Hoạt động ở các lò mổ có thể gây ra những mùi rất khó chịu. Các mùi này phát sinh từ các chất thải và lòng ruột bị đổ bỏ, cũng như từ khâu xử lý sơ bộ nước thải và từ khu nhốt gia súc. Mức độ mùi phụ thuộc vào việc các chất thải, chủ yếu là phân gia súc và lòng ruột được xử lý như thế nào. Việc thông khí có thể đôi khi tạo ra những mùi khó chịu.
Phát thải từ sản xuất năng lượng phụ thuộc vào loại nhiên liệu được sử dụng và vào nhiều yếu tố khác. Các chất thải này chủ yếu là oxit lưu huỳnh và Nitơ. Các chất làm lạnh có thể bay ra trong trường hợp rò rỉ hoặc hỏng hóc các thiết bị lạnh.
Cuối cùng là khí xả từ các phương tiện vận chuyển cũng xả vào không khí.
Tiếng ồn
Việc vận chuyển đến và đi từ nhà máy cũng như bốc dỡ hoặc chất xếp hàng hóa có thể gây ra tiếng ồn. Bên cạnh đó, các quạt thông gió, thiết bị lạnh và các thiết bị tương tự cũng gây ra loại tiếngồn như vậy.
Tiếng ồn có thể phát ra từ khu nhốt gia súc. Tuy nhiên, mức độ tiếng ồn thường không vượt quá giới hạn cho phép cuẩ Cục bảo vệ môi trường Thụy Ðiển.
Chất thải và các phủ tạng
Một lượng lớn chất thải và lòng ruột bỏ đi được tạo ra trong ngành công nghiệp này. Trong số đó, chủ yếu là phân gia súc, các thứ chứa trong dạ dày, ruột, các phủ tạng, da, máu, lông lợn...cũng như cặn, dầu và các chất từ thiết bị lọc xử lý của bộ phận xử lý nước thải. Chất thải dạng muối được tạo ra trong khâu xát muối vào da. Chất thải còn tạo ra khi giết mổ các con vật bị bệnh. Cuối cùng, còn có các chất thải độc hại có thể được tạo ra, ví dụ như hóa chất và dầu thải.
Trục trặc và ngừng hoạt động
Trong số nhiều trục trặc, có thể có những trục trặc xảy ra với thiết bị xử lý nước thải, ví dụ như bơm, máy lọc, tách cặn. Sự cố này làm tăng lượng nước thải ra. Ngoài ra, các bình chứa dầu và chất làm lạnh (amoniac, CFC/HCFC) có thể bị rò rỉ.
Biện pháp xử lý
Vị trí
Khi đặt xây dựng lò giết mổ gia súc cần xem xét thực trạng sự phát sinh mùi khó chịu và tiếng ồn. Chúng không nên đặt gần khu dân cư quá 500m. Trong những trường hợp nhất định, khoảng cách an toàn này cần được tăng lên hay giảm xuống, tùy trường hợp.
Nước
Nước thải từ các cơ sở giết mổ gia súc chứa các chất dễ bị phân hủy, do đó thích hợp với nhà máy xử lý nước thải địa phương. Ðể tránh các rắc rối do tắc ống dẫn hoặc trong hâu xử lý, nước thải cần được lọc và tách dầu béo ở ngay tại lò mổ. Nếu nhà máy xử lý nước thải quá tải, cần cân bằng lại dòng chảy và tiến hành nhiều biện pháp tiếp tục, ví dụ như kết tủa hóa học hoặc xử lý sinh học.
Lượng nước thải và chất gây ô nhiễm dao động tùy theo quy mô của lò mổ và các tiêu chuẩn kỹ thuật...(xem bảng dưói đây).
Thông thường nước thải dẫn đến nhà máy xử lý nên giữ lại cho tới giai đoạn cuối của quy trình. Tuy nhiên, tùy mỗi trường hợp mà có những đánh giá cụ thể.
Tiết kiệm và bảo vệ vốn luôn được ưu tiên nhưng điều này lại mâu thuẫn với yêu cầu vệ sinh thực phẩm. Với khâu vệ sinh lò mổ và các dụng cụ nếu có thể nên sử dụng bộ phận cao áp hoặc các thiết bị tương tự.
Việc thu hồi máu càng nhiều càng tốt là đặc biệt quan trọng. Bằng cách lắp đặt thiết bị thu hồi máu trong khâu rạch mổ, lượng máu thu được đã tăng tới 0,5 - 1,0 l/ con lợn.
Những loại máu khác nhau hay máu thải bỏ đi cần được tập trung lại và chế biến để làm thức ăn chăn nuôi chặng hạn. Với mổ trâu bò, các bước rạch mổ, rút máu, lột da cần được tiến hành trên một máng hứng máu. Thời gian hứng máu với trâu bò, bê, cừu ít nhất là 7 phút, với lợn là 6 phút.
Nước rửa máng hứng máu lần đầu cần được tập trung lại cùng với máu thải. Những gì đọng ở đáy chậu nước cạo lông cần được tập trung và xử lý cùng các chất thải khác. Cần thu hồi các chất thải như lông lợn, da và xử lý tiếp tục.
Các chất thải rắn khác nên được tập trung ở một nơi khô ráo trước khi làm vệ sinh. Cần lắp đặt những thiết bị thu gom ở những nơi nào có thể có chảy tràn như ở ngoài rìa khu vực sản xuất. Chất thải rắn rơi xuống sàn cần được thu gom lại bằng dụng cụ vét bằng cao su.
Nên lựa chọn những chất tẩy rửa và các phương pháp có ít ảnh hưởng tới môi trường nhất. Do vậy, việc lựa chọn chất tẩy rửa rất quan trọng, nên xin ý kiến của lãnh đạo nhà máy xử lý nước thải. Cần áp dụng nguyên tắc yêu cầu sử dụng những chất có hiệu quả tương tự nhưng ít độc hại hơn, như đã nêu rõ trong luật về sử dụng các chế phẩm hóa học (LKP 5 ).
Việc lắp đặt thiết bị mới dùng cho khâu cạo lông lợn đã giúp giảm lượng chất ô nhiễm trong nước thải.
Nhằm giảm lượng chất ô nhiễm từ khâu làm lòng ruột, một nguyên tắc rất quan trọng là các chất chứa trong ruột và dạ dày phải được xử lý trực tiếp bằng máy và phải được thu gom vào một nơi khô ráo. Khi lắp đặt máy móc mới, cần chú ý đến tiêu chí bảo vệ nước. Các chất chứa trong dạ dày và ruột cần được loại bỏ khỏi quy trình và chế biến để sử dụng cho những mục đichs khác giống như với phân, không nên đưa chúng vào cùng với nước thải.
Với các lò mổ nhỏ hơn hoặc các lò mổ xung quanh khu dân cư cũng cần áp dụng các quy định giống như với các lò mổ lớn, có cân nhắc vấn đề bảo vệ môi trường.
Việc vận chuyển nước thải tới nhà máy xử lý có thể rất tốn kém. Nếu lò mổ ở cạnh một khu nông trang nối liền với một nhà máy xử lý phân, trong đó có bể phân lỏng, nước thải từ lò mổ có thể đưa trực tiếp tới đó để trữ và sau đó đem bón trên ruộng đồng.
Có thể tránh việc tạo thành hydro sulfid bằng cách cho thêm một chất oxi hóa, ví dụ như nitrat.
Không khí
Nhằm tránh việc phát sinh những mùi khó chịu, các lò mổ cần được giảm sát chặt chẽ. Lòng ruột và các chất thải sinh học khác cần được xử lý trong những phòng lạnh riêng biệt và nếu nước thải được xử lý ở nhà máy, cần xử lý chúng ở một khu vực đóng kín và có mái che. Nếu lòng ruột được vận chuyển trong các thùng chứa, chúng cần được đậy kín. Không được cất trữ những thứ này ở bên ngoài nhà.
Nếu ngay cả khi các biện pháp trên đã được áp dụng mà mùi khó chịu vẫn bay ra thì cần có biện pháp vệ sinh tốt hơn, ví dụ như không khí từ khu xử lý nước thải sinh học có thể lọc qua bộ lọc sinh học. Ngoài ra có thể thay bằng màng lọc, lọc than, thiêu hủy trực tiếp hoặc có xúc tác. Những biện pháp này được nêu chi tiết hơn trong tài liệu hướng dẫn của Cục bảo vệ môi trường Thụy Ðiển về "xử lý các cặn bã ở trong lò mổ "
Ðộc giả nên tìm đọc cuốn "Các nhà máy đốt phục vụ cho sản xuất năng lượng " để biết thêm ve những biện pháp phù hợp với quy trình này.
Chất thải và các phủ tạng
Cần cố gắng sao cho lòng ruột từ các lò mổ phải được sử dụng một cách tiến bộ nhất trong phạm vị có thể, ví dụ như sản xuất các sản phẩm đặc biệt, sản xuất thức ăn chăn nuối, sản xuất gas sinh học hoặc khai thác dùng làm phân bón. Cũng tham khảo ở tài liệu "Các nhà máy đốt phục vụ cho sản xuất năng lượng ".
Các chất thải như phân gia súc, các chất chứa trong lòng ruột cần được xử lý như một nguồn phân compost và/hoặc bón trực tiếp vào đồng ruộng.
Giá trị dinh dưỡng của các chất trên đối với cây trồng là như nhau. Lòng ruột đã rửa sạch chứa lượng kali bằng với khi chúng còn chất chứa ở trong. Lượng phospho và Nitơ thấp hơn nhưng vẫn gần bằng các nguồn khác như phân chuồng chẳng hạn. Lượng Nitơ trong máu thải cao nhưng lượng phospho và Kali bằng với các sản phẩm khác. Cần đánh giá cao khả năng dùng làm phân bón của các sản phẩm này. Do đó, máu và các phủ tạng thường được giữ lại sử dụng trong ngành nông nghiệp. Nếu những thứ này được nghiền ra, chúng có thể cất trữ tạm thời được, ví dụ như trong các bể chứa phân. Không được có các mùi khó chịu bay ra do việc bón phân, nếu đất được cày lật lên ngay sau đó. Ðể có thêm thông tin xin mời tham khảo tài liệu về nông nghiệp.
Các chất thải khác nên xử lý để dùng làm thức ăn chăn nuôi hoặc sản phẩm tương tự.
Ðối với những lò mổ quy mô nhỏ, các chất thải này trong một số trường hợp nhất định có thể được nghiền nhỏ và chuyển tới nhà máy xử lý nước thải địa phương hoặc một nhà máy gas sinh học khác để chiết lấy gas trong các bể xử lý. Chất thải đi ra từ các bể này không chứa vi khuẩn gây bệnh mùi giảm hơn trước khi xử lý và dễ bón cho đất hơn. Gas thu được có thể dùng để đốt nóng.
Các chất thải như dầu và cặn từ thiết bị tách được lắng cặn.
Tiếng ồn
Trong nhiều trường