Đồ án Tổng quan về dược tính của đậu nành

Từ thời xa xưa loài người đã biết dùng cây cỏ để chữa bệnh. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các cây thuốc được phát hiện ngày càng nhiều hơn, các phương pháp chế biến cũng phong phú hơn. Trong đó sự ra đời của lĩnh vực hóa học các hợp chất thiên nhiên đã góp phần to lớn trong việc tìm kiếm và phát hiện các hợp chất có giá trị từ thế giới sinh vật vô cùng phong phú và kỳ diệu. Do điều kiện địa lý đặc thù, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên Việt Nam là một nước có thảm thực vật phong phú và đa dạng sinh học với nhiều cây dược liệu quý. Nhân dân ta vốn có kinh nghiệm lâu đời trong việc dùng thuốc thảo mộc, đặc biệt trong điều trị các bệnh viêm nhiễm. Nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học của các cây thuốc dân tộc không chỉ phục vụ việc tìm kiếm thuốc mới, mà còn giúp lý giải cơ chế, tác dụng chữa bệnh của dược thảo để sử dụng chúng có hiệu quả hơn, cũng như góp phần khoa học hóa nền y học cổ truyền. Cùng với hàng ngàn dược liệu có mặt ở khắp các vùng lãnh thổ Việt Nam, Đậu nành là một trong số những dược liệu quí. Đậu nành thuộc họ cánh bướm. Đây là loại cây thảo, hằng năm, có nguồn gốc ở Trung Quốc rồi từ đó lan ra các nước khác Nhật Bản, Việt Nam, Malaixia, Triều Tiên, có mặt ở châu Âu vào đầu thế kỉ 17. Đậu nành từ lâu đã được biết đến là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao vì chứa hàm lượng protein cao hơn bất kì loại nông sản nào. Không những thế trong Đậu nành còn chứa rất nhiều khoáng chất, các chất sinh tố B đặc biệt là các hoá chất thảo mộc có khả năng ngăn ngừa và trị liệu bệnh tật. Trong những năm gần đây, Đậu nành đã và đang chuyển biến từ thực phẩm thành dược phẩm, là cây thuốc quí được sử dụng trong đông y. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra sử dụng Đậu nành có tác dụng giảm nguy cơ các bệnh liên quan đến tim mạch, ngăn cản sự phát triển các mầm ung thư, ngăn ngừa bệnh thận, bệnh tiểu đường, bệnh xốp xương, bệnh nhiếp hộ tuyến đàn ông, các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh phụ nữ. Điều làm các nhà khoa học say mê nghiên cứu là khám phá ra các hoá thảo mộc có trong Đậu nành và những ứng dụng của chúng trong lĩnh vực y khoa trị liệu, trong đó các isoflavones là loại hoá thảo mang lại nhiều hứng thú nhất.

doc36 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2870 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Tổng quan về dược tính của đậu nành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Từ thời xa xưa loài người đã biết dùng cây cỏ để chữa bệnh. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các cây thuốc được phát hiện ngày càng nhiều hơn, các phương pháp chế biến cũng phong phú hơn. Trong đó sự ra đời của lĩnh vực hóa học các hợp chất thiên nhiên đã góp phần to lớn trong việc tìm kiếm và phát hiện các hợp chất có giá trị từ thế giới sinh vật vô cùng phong phú và kỳ diệu. Do điều kiện địa lý đặc thù, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên Việt Nam là một nước có thảm thực vật phong phú và đa dạng sinh học với nhiều cây dược liệu quý. Nhân dân ta vốn có kinh nghiệm lâu đời trong việc dùng thuốc thảo mộc, đặc biệt trong điều trị các bệnh viêm nhiễm. Nghiên cứu hóa học và hoạt tính sinh học của các cây thuốc dân tộc không chỉ phục vụ việc tìm kiếm thuốc mới, mà còn giúp lý giải cơ chế, tác dụng chữa bệnh của dược thảo để sử dụng chúng có hiệu quả hơn, cũng như góp phần khoa học hóa nền y học cổ truyền. Cùng với hàng ngàn dược liệu có mặt ở khắp các vùng lãnh thổ Việt Nam, Đậu nành là một trong số những dược liệu quí. Đậu nành thuộc họ cánh bướm. Đây là loại cây thảo, hằng năm, có nguồn gốc ở Trung Quốc rồi từ đó lan ra các nước khác Nhật Bản, Việt Nam, Malaixia, Triều Tiên, có mặt ở châu Âu vào đầu thế kỉ 17. Đậu nành từ lâu đã được biết đến là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao vì chứa hàm lượng protein cao hơn bất kì loại nông sản nào. Không những thế trong Đậu nành còn chứa rất nhiều khoáng chất, các chất sinh tố B đặc biệt là các hoá chất thảo mộc có khả năng ngăn ngừa và trị liệu bệnh tật. Trong những năm gần đây, Đậu nành đã và đang chuyển biến từ thực phẩm thành dược phẩm, là cây thuốc quí được sử dụng trong đông y. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra sử dụng Đậu nành có tác dụng giảm nguy cơ các bệnh liên quan đến tim mạch, ngăn cản sự phát triển các mầm ung thư, ngăn ngừa bệnh thận, bệnh tiểu đường, bệnh xốp xương, bệnh nhiếp hộ tuyến đàn ông, các triệu chứng rối loạn tiền mãn kinh phụ nữ. Điều làm các nhà khoa học say mê nghiên cứu là khám phá ra các hoá thảo mộc có trong Đậu nành và những ứng dụng của chúng trong lĩnh vực y khoa trị liệu, trong đó các isoflavones là loại hoá thảo mang lại nhiều hứng thú nhất. 1.VÀI NÉT VỀ CÂY ĐẬU NÀNH 1.1.Tìm hiểu chung về cây Đậu nành. Đậu nành có tên khoa học là Glycine max L, thuộc họ Đậu (Fabaceae), còn được gọi là Đậu tương hay đại Đậu. [2] Trên thế giới có trên 1000 loại Đậu tương với nhiều đặc điểm khác nhau, hạt Đậu nành có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. [5,6] Đậu nành là loại cây thân thảo, hằng năm. Thân cây mảnh, cao từ 0,8m đến 0,9m, có lông, cành hướng lên phía trên. Lá mọc cách có ba lá chét hình trái xoan, mũi gần nhọn, không đều ở gốc. Hoa có màu trắng hay tím xếp thành chùm ở nách cành. Quả thõng, hình lưỡi liềm, gân bị ép, trên quả có nhiều lông mềm màu vàng, thắt lại giữa các hạt. Các hạt thứ 2, 3, 5 gần hình cầu, các hạt còn lại hình thận dài, có màu vàng rơm nhạt. [2] Ở nước ta phân biệt rõ ràng Đậu nành (hạt màu vàng nhạt) với Đậu đen, Đậu đỏ nhưng trong các tài liệu thực vật nước ngoài người ta mô tả hạt Đậu nành có thể có màu vàng, đỏ, lục hay đen với nhiều đặc điểm khác nhau, hạt Đậu có kích thước nhỏ nhất như hạt Đậu Hà Lan cho tới lớn nhất giống trái anh đào. [2,6] Theo từ điển thực phẩm, Đậu nành có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó được truyền bá sang Nhật Bản vào khoảng thế kỉ thứ 8, vào nhiều thế kỉ sau đó có mặt ở các nước Á châu như Thái Lan, Malaisia, Hàn Quốc, Việt Nam… từ thời cổ xưa Đậu nành đã được sử dụng ở những nước này làm thực phẩm. Cây Đậu nành có mặt ở châu Âu vào đầu thế kỉ 17 và ở Hoa Kì vào thế kỉ 18, việc trồng trọt bắt đầu phát triển lớn ở Liên Xô cũ nhưng phát triển nhanh chóng tại những nước châu Mỹ: những nước thuộc miền trung và đồng bằng sông Mitsixipi. [2,5,6]. Theo tài liệu [15] Đậu nành có nguồn gốc ở phía Bắc và Đông châu Á, là một trong những thực phẩm quan trọng. Đậu nành có thể trồng trong suốt mùa hè và mùa thu, trồng xen trên các cánh đồng trồng lúa. Ngày nay, Hoa Kì là quốc gia đứng đầu sản xuất Đậu nành chiếm 50% sản lượng trên toàn thế giới, rồi đến Trung Quốc, Ấn Độ. Cây Đậu nành là một trong năm cây thực phẩm quan trọng ở Hoa Kì, theo số liệu thống kê của bộ nông nghiệp Hoa Kì năm 2008 diện tích trồng cây Đậu nành chuyển gen chiếm 92% trong tổng diện tích trồng cây Đậu nành trên cả nước. [5] 1.2.Một số ứng dụng chính từ Đậu nành. Xưa nay, Đậu nành vẫn được các nhà dinh dưỡng học đánh giá rất cao vì giàu protit và lipit. Trong 100g Đậu nành có từ 34 đến 40g protit và khoảng gần 20g lipit, nhiều hơn bất cứ một loại thịt động vật nào. Chất protein trong Đậu nành ở dưới dạng casein thực vật không khác với casein động vật có trong sữa, có đầy đủ các axit amin cần thiết cho sự phát triển và duy trì cơ thể con người. Ngoài ra, Đậu nành còn rất giàu vitamin và muối khoáng. Từ đậu nành, nhân dân ta đã chế biến nhiều thức ăn ngon như: bột Đậu nành, sữa Đậu nành, Đậu phụ, Tào phớ, Tương... [1] Hạt đậu nành có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. Cùng một mẫu đất, số thu hoạch chất đạm Đậu nành nhiều hơn 33% với bất kỳ một thứ nông sản nào khác. Hàm lượng protein của Đậu nành cũng cao hơn cả thịt, cá và gần gấp đôi các loại Đậu khác. [5] Đậu nành chứa hàm lượng dầu béo cao hơn các loại Đậu khác nên được coi là loại cây cung cấp dầu thảo mộc. Chất béo lipit của Đậu nành có chứa một tỷ lệ cao chất fatty axid không bão hoà, có mùi vị thơm ngon, cho nên dùng dầu Đậu nành thay thế cho mỡ động vật. [5] Dầu Đậu nành còn được sử dụng để nghiên cứu tổng hợp biodiezen trên xúc tác NaOH/MgO. Biodiezen là nhiên liệu sinh học nhằm thay thế cho nhiêu liệu diezen khoáng đang ngày càng cạn kiệt. [3] Ở Trung Hoa, Nhật Bản và Hàn Quốc người ta đã chế biến ra được trên 600 sản phẩm khác nhau, trong đó có hơn một nửa loại thực phẩm được chế theo phương pháp cổ truyền dưới dạng tươi, khô và lên men cho đến các sản phẩm hiện đại bằng kỹ thuật mới như: cà phê, thịt chay nhân tạo, sôcôla…[5] Ngày nay, tại các nước Á châu, đậu hũ được xem là thức ăn hằng ngày và coi như là một phần của nền văn hoá Á đông giống như văn hoá humburger của Hoa Kì vậy. [5] Đậu nành sau khi đã ép lấy dầu, người ta dùng bã Đậu chế biến thành thức ăn nuôi gia súc. Ở những quốc gia phát triển, họ còn dùng Đậu nành vào các kĩ nghệ khác như: chế biến cao su nhân tạo, mực in, sơn, xà phòng, chất tơ nhân tạo, chất nhiên liệu lỏng, dầu làm trơn trong kĩ nghệ hàng không…[5] Bột Đậu nành sau khi đã loại dầu hay nước Đậu nành sau khi đã tinh chế được dùng chế men ureaza, thuốc thử đặc hiệu đối với urê trong hoá sinh. [2] Cây đậu nành còn có khả năng tồn trữ chất đạm của khí trời và làm giàu chất đạm cho đất. Do đõ kỹ nghệ trồng cây đậu nành không những không làm hư đất mà còn làm cho đất thêm màu mỡ. [5] Ngoài giá trị dinh dưỡng, Đậu nành và những món ăn chế biến từ Đậu nành còn có giá trị phòng và chữa bệnh. [1] Đậu nành có tác dụng làm cho cơ thể con người trẻ lâu, sung sức, tăng thêm trí nhớ và tái tạo các mô, làm cứng xương và tăng sức đề kháng của cơ thể. [5] Trong y dược, bột Đậu nành (đã làm mất mùi bằng hơi nước) trộn với bột ngũ cốc, ca cao dùng làm thức ăn cho trẻ sơ sinh, người bị bệnh tiểu đường, người bị thấp khớp, bệnh gút, người mới ốm dậy, người lao động quá sức. [2] Lexitin và casein dùng riêng hay phối hợp làm thuốc bổ dưỡng, làm tá dược Stigmasteron dùng trong tổng hợp progesteron. [2] Trong công nghiệp dược phẩm, bột Đậu nành được dùng chế môi trường nuôi cấy nấm mốc kháng sinh, chế một số axit amin như acginin, axit glutamic bằng thuỷ phân axit bột Đậu nành. [2] Các nhà khoa học còn khám phá ra các hoá thảo mộc Đậu nành có đặc tính chống lại các mầm ung thư như: ung thư vú, ung thư kết tràng, ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư nhiếp hộ tuyến. [5,6,7] Hơn thế nữa, Đậu nành có khả năng làm hạ cholesterol trong máu những người bị xơ vữa động mạch, phòng ngừa các chứng bệnh về tim mạch, bệnh tiểu đường, bệnh xốp xương, bệnh thận…[1,5] Isoflavones trong Đậu nành là một trong những hoá thảo mộc đang được các nhà khoa học say mê nghiên cứu nhất vì nó có những tính năng kì diệu chống lại các tác dụng gây nên chứng ung thư liên hệ đến hormone, sử dụng trong điều trị các triệu chứng mãn kinh phụ nữ như: bốc hoả, đổ mồ hôi, mất ngủ, lo âu, rối loạn chức năng tình dục, lão hoá da, bệnh Alzheimer…[7,4] Hàm lượng protein cao trong hạt Đậu nành cũng như nhiều hợp chất có giá trị khiến Đậu nành trở thành một trong những thực phẩm quan trọng trên thế giới, Đậu nành còn được mệnh danh là “thần dược” của phụ nữ. [6] 2.Thành phần hoá học trong Đậu nành. Theo GS. Đỗ Tất Lợi [2], toàn cây chứa 12% nước, 16% gluxit, 14-15% protein, 6% muối khoáng và các chất khác không có nitơ. Hạt cây là thành phần có giá trị sử dụng nhất vì nó không những chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết mà còn tồn tại các hoá thảo mộc có tác dụng phòng ngừa và trị bệnh đặc biệt là các căn bệnh thời đại như: bệnh ung thư, các bệnh liên quan đến tim mạch 2.1.Các thành phần có giá trị dinh dưỡng trong Đậu nành. 2.1.1.Protein. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hạt Đậu nành có giá trị dinh dưỡng rất cao. Người ta đã xác định thành phần protein trong hạt Đậu nành chứa đầy đủ 8 loại amino axit thiết yếu : tryptophan, threonine, isoleuxin, valin, lysin, methionin, phenylalanin và leucin. Hàm lượng của các chất amino axit này tương đương với hàm lượng của các chất amino axit trứng gà đặc biệt là tryptophan gần gấp rưỡi của trứng. [5,7]. Protein trong hạt Đậu nành chứa khoảng trên 38% tuỳ loại, hiện nay nhiều giống Đậu nành có hàm lượng protein đặc biệt cao tới 40-50%. Có những chế phẩm của Đậu nành mang tới 90-95% protein, đây là nguồn protein thực vật có giá trị cao cung cấp cho con người. [6] Protein của Đậu nành dễ tiêu hoá, không có cholesterol và ít chất béo bão hoà thường có nơi thịt động vật. Hàm lượng protein của Đậu nành cũng cao hơn cả thịt cá và gần gấp đôi các loại Đậu khác. [5] 2.1.2.Chất sinh tố và chất khoáng. Không chỉ giàu protein hơn bất cứ loại thực phẩm nào, kể cả thịt động vật. Đậu nành còn rất giàu chất sinh tố và chất khoáng như: sắt, canxi, photpho, kẽm, các vitamin nhóm B: B1, B2, B3, B6 ngoài ra còn có vitamin E. Trong Đậu nành còn chứa nhiều chất xơ rất tốt cho tiêu hoá. [5,6] Theo GS. Đỗ Tất Lợi [2], hạt Đậu nành chứa trung bình 8% nước, 4-5% chất vô cơ, trong đó rất nhiều Kali 2%, Natri 0,38%, Canxi 0,23%, photpho 0,65%, Magiê 0,24%, lưu huỳnh 0,45%. Đậu nành chứa các vitamin tan trong nước như: các vitamin B1, B2, B3, B6; vitamin PP và chứa các vitamin tan trong dầu như: vitamin A, vitamin D, vitamin E (trong Đậu nành ở châu Á và châu Mỹ), vitamin K, vitamin F không có vitamin C. Các vitamin A và D xuất hiện khi hạt mới chín, sau đó bị men oxy hoá phá huỷ. Trong nhóm vitamin B, Đậu nành chứa lượng vitamin B1 gấp 3 lượng vitamin B1 trong sữa bột và trong bột những loại hạt Đậu khác chứa tinh bột, lượng vitamin B2 chứa ít hơn trong sữa bột khoảng 1/3 nhưng lại gấp 6 lần so với một số loại Đậu khác. 2.1.3.Chất béo và chất cholesteron. Đậu nành là thực phẩm nhiều protein nhưng lại ít calorit, ít chất béo bão hoà và hoàn toàn không có cholesteron. [5] Chất béo chiếm khoảng 15-20% có khi đạt tới 23%. Tỷ lệ phần trăm của các glyxerit axit béo: linolein 49,3%, olein 32%, linolenin 2%, panmitin 6,5%, stearin 4,2%, aracgidin 0,7%, lignoxerin 0,1% và 0,5% axit panmitoleic. [2] So sánh với các loại Đậu khác thì Đậu nành có chứa các axit béo thiết yếu cao hơn, tổng số chất béo chứa khoảng 18%, thành phần cacbonhydrat chiếm 31%.[4] 2.1.4.Dầu đậu nành Dầu Đậu nành thuộc loại dầu khô như dầu hạt lanh, chứa khoảng 14% chất béo bão hoà, 59% chất béo không bão hoà đa tính, 23% chất béo không bão hoà đơn tính. Trong số lượng chất béo không bão hoà đa tính lại chứa 8% linoleic axit (omega – 3- fatty acid), hiếm có trong các thực phẩm nguồn gốc thực vật. [2,5] Trong dầu béo Đậu nành còn có photpholipit chủ yếu là lexitin 1-5%. Lexitin hoặc nằm trong dầu béo (tách ra bằng lạnh), hoặc còn nằm trong phần bã (tách ra bằng dung môi bay hơi). Ngoài ra dầu béo còn có các chất steron như: stigmasteron, sitosteron và một số sapogenon khác. [2] 2.2.Thành phần hoá thảo mộc trong Đậu nành Điều làm các nhà khoa học thích thú nhất trong những năm nghiên cứu gần đây là sự khám phá ra các hoá thảo mộc có trong Đậu nành và những ứng dụng của chúng trong lĩnh vực y khoa trị liệu. Viện ung thư quốc gia Hoa Kì, viện đại học Havard, viện đại học Alabama, Minnesota, Helsinki và Finland đã thực hiện nhiều công trình khảo cứu khoa học để xác định những lợi ích của các hoá thảo Đậu nành. Họ đã thấy rằng sự tiêu thụ những chất này không những có khả năng ngăn ngừa mà còn có khả năng trị liệu một số bệnh như: bệnh đau tim, bệnh tai biến mạch máu não, ung thư vú, ung thư nhiếp hộ tuyến và ung thư kết tràng…[7] 2.2.1.Protease inhibitor Năm 1980, Dr. Walter troll thuộc trường đại học y khoa New York university Medical Center đã khám phá ra rằng Đậu nành nguyên sơ có khả năng ngăn cản không cho bệnh ung thư phát triển trên các loài động vật, do tác dụng của chất protease inhibitors. Tiếp sau đó, nhiều nhà khoa học đã khảo sát và thử nghiệm chất protease inhibitors Đậu nành trong phòng thí nghiệm và thấy rằng nó có tác dụng chống lại sự phát triển mầm ung thư kết tràng, ung thư phổi, ung thư miệng…[5,7] Protease inhibitor ngăn ngừa sự tác động của một số gen di truyền gây nên chứng ung thư. Nó cũng bảo vệ các tế bào cơ thể không cho hư hại, gây nên bởi sự tác động của môi trường xung quanh như tia nắng phóng xạ và các chất có thể tấn công ADN. [5,7] 2.2.2.Phytate[5,7] Phytate là một hợp thể chất khoáng phosphorus và inositon. Các nhà khoa học đã chứng minh phytate không những có tác dụng ngăn ngừa mầm ung thư mà còn có khả năng ngăn ngừa bệnh tim mạch. Hai nhà nghiên cứu Drs.E.Graf và J. W.Eator đã cho biết phytate bảo vệ chúng ta khỏi bệnh ung thư kết tràng, kết quả trong phòng thí nghiệm cho thấy phytate đã liên tiếp ngăn cản không cho bệnh ung thư kết tràng phát triển và không cho phát sinh mầm ung thư vú. Mặt khác phytate có tác dụng ngăn cản sự hấp thụ sắt trong ruột do đó bảo vệ chúng ta khỏi chứng có quá nhiều chất sắt vì chất sắt thặng dư cũng là một trong những yếu tố nguy hại đến chứng nhồi máu cơ tim. Phytates hành xử giống như chất antioxydant, vitamin C, Beta – carotin. 2.2.3.Phytosteron [5,7] Phytosteron có liên hệ với cholesteron, tuy nhiên cholesteron chỉ có nơi các thực phẩm có nguồn gốc từ thịt động vật còn phytosteron chỉ có trong các thực phẩm rau đậu. Không giống như cholesteron, phytosteron có tác dụng ngăn ngừa các bệnh về tim mạch qua việc dành chỗ thẩm thấu qua ruột của cholesteron để vào máu.Do đó cholesteron không vào máu được mà phải bài tiết ra ngoài, lượng cholesteron trong máu giảm, mức độ giảm tuỳ từng cá thể. Phytosteron cũng có khả năng làm giảm sự phát triển các bướu ung thư kết tràng và chống lại ung thư da. 2.2.4.Saponin Năm 2007 các nhà khoa học Hàn Quốc và Nhật Bản dùng bột Đậu nành đã khử dầu đem chiết xuất trong metanol, butanol 80%. Dịch chiết sau khi làm khô trong chân không được đem định tính bằng sắc kí lớp mỏng, sắc kí lỏng hiệu năng cao HPLC và xác định cấu trúc bằng cách ghi phổ. Sau khi xác định thành phần saponin trong Đậu nành, các khoa học gia tiến hành thí nghiệm thử hoạt tính của saponin trên chuột đực 5 tuần tuổi bằng cách tiêm qua tĩnh mạch đuôi. Kết quả cho thấy saponin trong Đậu nành có tác dụng ngăn cản sự di căn của những tế bào ung thư. [14] Nhiều công trình nghiên cứu khác đã chỉ ra, saponin là một loại hoá thảo có đặc tính giống như antioxydant. Saponin có khả năng trực tiếp ngăn cản sự phát triển ung thư kết tràng đồng thời làm giảm lượng cholesteron trong máu. 2.2.5.Phenolic axit [5,7] Phenolic axit là một hoá thảo chống oxy hoá anti – oxidant và phòng ngừa các nhiễm sắc thể AND khỏi bị tấn công bởi những tế bào ung thư. 2.2.6.Lecithin [5,7] Khi nghiên cứu thành phần hoạt chất trong Đậu nành các nhà khoa học đã nhận thấy, đạm chất Đậu nành có chứa 3% lecithin bằng với lượng lecithin có trong lòng đỏ trứng gà. Lecithin là một hoá chất thực vật quan trọng, đóng một vai trò quyết định trong việc kích thích sự biến dưỡng ở khắp các tế bào cơ thể. lecithin có khả năng làm gia tăng trí nhớ bằng cách nuôi dưỡng tốt các tế bào não và hệ thần kinh, làm vững chắc các tuyến và tái tạo các mô tế bào cơ thể. Ngoài ra, lecithin có tác dụng cải thiện hệ thống tuần hoàn, bổ xương và tăng cường sức đề kháng. Khi hệ thần kinh thiếu năng lượng, chất lecithin ở Đậu nành sẽ phục hồi năng lượng đã mất. 2.2.7.Browman – Birk Inhibitor (BBI) [5] BBI là một hoá thảo mới nhất tìm thấy trong Đậu nành, có khả năng ngăn cản tiến trình phát triển mầm ung thư. Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học đã thử nghiệm và thành công trên các mẫu tế bào trong ống thí nghiệm và trong các thú vật qua hai dạng tinh chế PBBI và cô đặc BBIC. Theo báo cáo kết quả tường trình tại hội nghị khoa học thế giới về vai trò của Đậu nành trong việc phòng và trị bệnh (1996) thì PBBI và BBIC đã kiểm soát được sự phát triển tiến trình ung thư miệng, vú, ruột già, gan, phổi, thực quản cả các tế bào trong ống thử nghiệm lẫn ở các con chuột bạch và chuột đồng. Hiện nay BBI đã được dùng trên con người ở vài trung tâm nghiên cứu và kết quả sơ bộ rất khả quan. BBIC đã được thẩm định là loại thuốc mới bởi cơ quan F.D.A (the U.S.Food and Drug Administration). 2.2.8.Omega – 3 fatty axit [5] Omega – 3 fatty axit là loại chất béo không bão hoà có khả năng làm giảm lượng cholesterol xấu LDL đồng thời làm gia tăng lượng cholesterol tốt HDL trong máu. Nhiều nghiên cứu khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều Omega – 3 fatty axit giúp ngăn chặn sự phát triển của các bệnh tim mạch. 2.2.9. Isoflavone Do những tính năng kì diệu trong việc phòng và điều trị bệnh, đặc biệt là các căn bệnh thời đại, isoflavone đang là hoá thảo thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học hiện nay. 3.Thành phần và hoạt tính của isoflavone trong Đậu nành 3.1.Thành phần isoflavone trong Đậu nành Năm 2005, các nhà khoa học Brazil đã tiến hành phân tích 18 mẫu Đậu nành. Mục đích của thí nghiệm là xác định thành phần lớp chất isoflavon từ đó so sánh tỉ lệ các chất trong 18 mẫu. Qua phân tích, cho thấy isoflavon trong Đậu nành là một hợp chất phenolic gồm có: aglucone (daidzein, genistein và glyxitein), ß – glucozit (genistin, daidzin, glyxitin), ß – glucozit kết hợp với nhóm malonyl ( 6” - O – malonyldaidzin, 6” – O – malonylgenistin và 6” – O – malonylglycitin), ß - glucozit kết hợp với nhóm axetyl ( 6” – O – axetyldaidzin, 6” – O - axetylgenistin và 6” – O – axetylglycitin). [18] Bằng các phương pháp sắc kí HPLC/DAD và phổ UV các nhà khoa học Bồ Đào Nha cũng đã xác định thành phần của isoflavone trong 40 mẫu hạt Đậu nành. Sau khi so sánh với các kết quả nghiên cứu đã được thực hiện trước đó với kết quả phân tích trong thí nghiệm, các khoa học gia khẳng định trong hạt Đậu nành các aglucone chiếm một lượng nhỏ, hợp chất chính trong hạt Đậu nành là các dẫn xuất malonyl và dẫn xuất axetyl của ß – glucozit. Báo cáo còn chỉ ra trong hạt Đậu nành còn chứa các aglucone : sissotrin, ononin; các dẫn xuất axetyl của ß – glucozit : 6” – axetylsissotrin, 6” – axetylononin; các dẫn xuất malonyl của ß – glucozit : 6” - malonylsissotrin, 6” – malonylononin. [17] Năm 2006 các nhà khoa học Hàn Quốc đã thực hiện một nghiên cứu so sánh thành phần isoflavone trong phôi, lá mầm, hạt và vỏ hạt Đậu nành. Kết quả nhận được, tổng tỉ lệ trung bình của isoflavone là 2887μg/g trong phôi, 575μg/g trong hạt, 325μg/g trong lá mầm, 33μg/g trong vỏ hạt. Các khoa học gia cũng đã phân tách được 12 đồng phân isoflavone trong 90 phút/mẫu thí nghiệm bằng phương pháp HPLC – PDA. [15] Cấu trúc cơ bản của isoflavon gồm 2 vòng bezen: A và B nối với một dị vòng pyron. [12] Hình 1- Cấu trúc hoá học của các aglucon. Hình 2- Cấu trúc hoá học của các ß-Glucozit. 3.2.Hoạt tính của isoflavon trong Đậu nành. [4] Các hoạt chất có tác dụng “phytoestrogen” trong hạt Đậu nành gồm chủ yếu là daidzin, genistin. Genistin và daidzin là những phân tử tương đối lớn, tan tốt trong nước, tính phân cực ca