Hiện nay , Việt Nam đang tích cực mở cửa hội nhập với thế giới trên nhiều lĩnh vực , đặc biệt là kinh tế. Điều này đem lại những lợi ích rõ ràng cho chúng ta, tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều mối lo ngại . Là một phần của nền kinh tế thế giới, chúng ta chịu tác động của những xu hướng chung của toàn cầu, nhất là khi Việt Nam là một nước đang phát triển, chúng ta sẽ gặp phải nhiều nguy cơ khi hội nhập . Một trong số đó phải tính đến tình trạng đô la hóa. Gần đây , báo chí , các phương tiện truyền thông, các chuyên gia kinh tế đề cập rất nhiều đến vấn đề này, cho thấy tầm quan trọng của nó và những người quan tâm đến tình hình kinh tế nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng không thể bỏ qua.
Là những sinh viên ngành kinh tế , sự hiểu biết về thực trạng đôla hóa nói chung và đôla hóa tại Việt Nam nói riêng là điều cần thiết, đây không chỉ là kiến thức về kinh tế mà còn giúp chúng ta đưa ra những giải pháp thích hợp , định hướng cho sự phát triển kinh tế đất nước.
26 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2065 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đôla hóa - Hiện trạng và giải pháp khắc phục trong điều kiện Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐÔLA HÓA : HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TRONG ĐIỀU KIỆN VIÊT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN
Lê Quỳnh Anh _STT 11
Lê Thị Lan Anh _STT 12
Nguyễn Thị Mai Lý _STT 33
Lớp A5-KTĐN-K46C
MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài:
Hiện nay , Việt Nam đang tích cực mở cửa hội nhập với thế giới trên nhiều lĩnh vực , đặc biệt là kinh tế. Điều này đem lại những lợi ích rõ ràng cho chúng ta, tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều mối lo ngại . Là một phần của nền kinh tế thế giới, chúng ta chịu tác động của những xu hướng chung của toàn cầu, nhất là khi Việt Nam là một nước đang phát triển, chúng ta sẽ gặp phải nhiều nguy cơ khi hội nhập . Một trong số đó phải tính đến tình trạng đô la hóa. Gần đây , báo chí , các phương tiện truyền thông, các chuyên gia kinh tế đề cập rất nhiều đến vấn đề này, cho thấy tầm quan trọng của nó và những người quan tâm đến tình hình kinh tế nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng không thể bỏ qua.
Là những sinh viên ngành kinh tế , sự hiểu biết về thực trạng đôla hóa nói chung và đôla hóa tại Việt Nam nói riêng là điều cần thiết, đây không chỉ là kiến thức về kinh tế mà còn giúp chúng ta đưa ra những giải pháp thích hợp , định hướng cho sự phát triển kinh tế đất nước.
2/ Mục đích nghiên cứu
Trong nội dung bài tiểu luận này , chúng tôi muốn đưa ra một cái nhìn tổng quan về tình trạng đôla hóa, đồng thời đi sâu phân tích một số vấn đề quan trọng liên quan đến thực trạng này như : những tác động, nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp giảm “ đôla hóa” nền kinh tế. Đặc biệt , nhằm có được tác dụng thiết thực , chúng tôi sẽ tập trung chủ yếu vào vấn đề đôla hóa của Việt Nam.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 ĐÔLA HÓA LÀ GÌ ?
I/ KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1/ Định nghĩa
_ Theo cách hiểu đơn giản, đôla hóa là hiện tượng mà tại một quốc gia đồng ngoại tệ ( thường là đồng đôla - một ngoại tệ mạnh) được sử dụng rộng rãi , lấn lướt đồng nội tệ trong việc thực hiện toàn bộ hay một số chức năng tiền tệ .
_ Theo IMF, một nền kinh tế bị coi là có tình trạng đôla hóa cao nếu tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng( gồm tiền mặt lưu thông, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi không kì hạn, tiền gửi bằng ngoại tệ).
Mức độ đôla hóa được coi là vừa phải nếu tỷ lệ trên vào khoảng 16,5%.
2/ Phân loại đôla hóa
Hiện tượng đôla hóa có thể chia thành 3 loại :
_ Đôla hóa không chính thức
Là việc đồng đôla được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế dù không được chính phủ nước đó chính thức thừa nhận, có thể bao gồm
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. _ Đôla hóa bán chính thức
Là hiện tượng đồng ngoại tệ ( thường là đôla ) được thừa nhận hợp pháp trong việc thực hiện chức năng tiền tệ cùng đồng bản tệ . Tuy nhiên , đồng ngoại tệ vẫn đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế , chi tiêu hằng ngày.
_ Đôla hóa chính thức
Là hiện tượng đồng ngoại tệ ( thường chỉ là một đồng tiền của một quốc gia nào đó) là đồng tiền duy nhất được lưu hành hợp pháp, tức là không chỉ trong các giao dịch tư nhân mà cả những thanh toán của chính phủ.
II/ THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA HIỆN NAY
1/ Trên thế giới
Như chúng ta đã biết, hiện nay trên thế giới có một số đồng tiền mạnh như : đồng đôla Mỹ (USD ), đồng euro (EUR), đồng bảng Anh (GBP), đồng yên Nhật (JPY),…Các đồng tiền này được sử dụng nhiều trong giao dịch quốc tế, đặc biệt là đồng đôla Mỹ (chiếm khoảng 70% giao dịch thương mại trên thế giới). Không chỉ có thế , các đồng tiền này còn chiếm ưu thế trong giao dịch trong nội bộ nền kinh tế của nhiều quốc gia , chủ yếu là các quốc gia đang và chậm phát triển có nền kinh tế mở cửa.
Các quốc gia có mức độ đôla hóa cao như Argentina, Belarus, Bolivia, Campuchia, Costa Rica, Croatia, Lào, Mo-zam-bich, Peru, Thổ Nhĩ Kì và Uruguay.
Ở mức độ đôla hóa vừa phải có: Albania, Bungari, Cộng hoà Séc, Dominica, Hungary, Jamaica, Jordan, Mexico, Pakistan, Philippin, Ba Lan, Rumani, Ukraina, Uzabekistan, Việt Nam,…
2/ Tại Việt Nam_ Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% (trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%)
_ Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng USD. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD. Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo. Theo thống kê, tỷ lệ tiền gửi bằng USD trên tổng tiền gửi tại các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay khoảng từ 20 - 25%. Tuy nhiên, những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng đôla tại các ngân hàng không ngừng tăng lên, đặc biệt là các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ chí Minh.
_ Thêm vào đó một lĩnh vực bị đôla hóa khá mạnh là bán hàng qua mạng, nhất là các mặt hàng nhập khẩu như đồ điện tử, thiết bị gia dụng,…Hầu hết các trang web kinh doanh các mặt hàng này đều niêm yết giá song song bằng VND và USD nhưng trên thực tế thanh toán chủ yếu bằng USD. Mặc dù, theo quy định về quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, việc niêm yết giá các hàng hóa, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam. Việc niêm yết giá bằng ngoại tệ (phổ biến là USD) là vi phạm pháp luật nhưng việc niêm yết giá bằng USD khá phổ biến đối với các mặt hàng như: điện tử, ô tô, xe máy, bất động sản, khách sạn, du lịch. Ngoài ra, có những đầu mối cung cấp hàng cho các công ty trong nước chào giá USD song song với VNĐ nhưng thực tế chỉ chấp nhận thanh toán bằng USD.
Một số ví dụ cụ thể như :Các điểm bán tour của Saigontourist (một công ty du lịch lớn ở thành phố Hồ Chí Minh) cũng niêm yết giá bằng USD và tiền đồng, tour cá nhân bán bằng ngoại tệ, còn tour tập thể được bán bằng VNĐ,khi khách hàng thanh toán tiền đồng, nhân viên bán hàng sẽ quy đổi sang USD và ngược lại. Hiện nay các tour du lịch nước ngoài đều chào giá USD và mỗi đơn vị lữ hành áp dụng tỉ giá quy đổi khác nhau
Một số nhà hàng, khách sạn cũng treo bảng giá phòng, giá tiệc buffet bằng USD. Dịch vụ spa, kinh doanh mỹ phẩm, nữ trang, đồng hồ... cũng tương tự
Tại Trung tâm Thương mại Eden (TPHCM) những sản phẩm lưu niệm thuần túy Việt Nam vẫn niêm yết giá bằng USD. Trên thị trường nhà đất, tình trạng niêm yết USD cũng khá phổ biến. Tại các sàn giao dịch bất động sản, có đến 30% căn hộ chào bán bằng USD. Website giao dịch bất động sản ngân hàng Á Châu ACB luôn thể hiện thông tin “căn hộ Phú Hoàng Anh 1.250 USD/m2, Hoàng Anh River View 1.350 USD/m2. Hàng loạt văn phòng cho thuê cũng chào giá bằng ngoại tệ. Điều đáng nói, các yếu tố để hình thành bất động sản như đền bù mặt bằng, mua đất, vật liệu xây dựng... đều thanh toán bằng VNĐ, song đầu ra của nó lại được tính bằng ngoại tệ.
Nếu một số hàng hóa giao dịch USD lẫn VNĐ thì thị trường ô tô niêm yết hoàn toàn bằng USD ( Ví dụ: Mục tin tức của Công ty Ô tô Trường Hải cũng thể hiện xe New Carens có giá 28.800 USD. Công ty Suzuki Việt Nam chào bán ô tô APV BTLimited với giá 23.490 USD... )
Đáng quan tâm hơn, một số khoản tiền thưởng mang tính chất quốc gia cũng được tính bằng đôla (như tiền thưởng cho đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam cũng được các đơn vị tính bằng đôla).
Công bố thông tin về thu nhập bình quân đầu người, người ta cũng dùng đồng đô la (mặc dù là thu nhập của người Việt Nam).
Chính phủ đưa ra gói kích cầu trong tình hình kinh tế suy thoái hiện nay, khi công bố tổng số tiền kích cầu người ta cũng dùng đồng đô la.
CHƯƠNG 2 NGUYÊN NHÂN HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA
Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước đang và chậm phát triển . Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng của tiền tệ, đó là:• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.• Chức năng làm phương tiện cất giữ.• Chức năng làm phương tiện trao đổi. Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lứu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới).
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước. Thứ tư, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao. Đối với trường hợp Việt Nam ngoài các yếu tố trên, chúng ta cần nhấn mạnh thêm một số nguyên nhân sau đây của hiện tượng đô la hoá: 1/ Giá trị đồng nội tệ không được tin tưởng là có độ ổn định cao
Trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh lệch lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao hơn bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD hơn là VNĐ.
Nguyên nhân hiện tượng này mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao. Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn đô la để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh diểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng. Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 3% - 4%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng lên.
Bên cạnh đó, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng
2/Giá trị 1 đơn vị nội tệ quá thấp so với một đơn vị ngoại tệ mạnh, cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với gần 1,8 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ. Chúng ta lấy ví dụ sau: Nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 Đ(mệnh giá cao nhất của VND hiện nay) hoặc 300 tờ 100.000 Đ. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 USD , nếu bằng euro chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được. Hoặc khi người ta cần trao tay cho nhau tiền mặt với giá trị lớn, rõ ràng sử dụng VND là quá cồng kềnh và bất tiện.
3/Ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USD bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
+Nguồn kiều hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm gần đây không ngừng tăng lên như sau: năm 1991: 35 triệu USD; 1992: 136,6 triệu USD; 1993: 140,98 triệu USD; 1994: 249,47 triệu USD; 1995: 284,96 triệu USD; 1996: 468,99 triệu USD; 1997: 400 triệu USD; 1998: 950 triệu USD; 1999: 1.200 triệu USD; 2000: 1,757 triệu USD; 2001: 1.820 triệu USD; 2002: 2.150 triệu USD;năm 2003: 2.580 triệu…. Đó là con số thống kê được qua hệ thống ngân hàng, chưa kể ngoại hối được chuyên ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt người Việt Nam và Việt kiều mang trực tiếp theo người khi nhập cảnh, người xuất khẩu lao động gửi tiền về nước.
+ Ngành du lịch của Việt Nam rất được quan tâm phát triển. Thực tế là hàng năm nước ta thu hút một lượng rất lớn lượt khách ( năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu;...; năm 2002 là 2,628 triệu ) do đó lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam. Khoản chi tiêu đó bao gồm cả những dịch vụ đi kèm như nhà hàng, khách sạn, quà lưu niệm,…Đây là một nguồn thu ngoại tệ không nhỏ
+ Hiện nay, với việc mở cửa tích cực nền kinh tế, các công ty đa quốc gia vào Việt Nam hoạt động rất nhiều, kéo theo đó là lực lượng lao động Việt Nam làm việc cho công ty nước ngoài. Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ.
+ Tiếp đó phải kể đến số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
+Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền từ các tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.
+Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp cũng tăng mạnh trong thời gian gần đây
+Xuất khẩu là một lĩnh vực then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Do đó chúng ta thu được nguồn ngoại tệ rất lớn từ hoạt động này
+Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.4/Do lo ngại rủi ro tỷ giá
Trong hơn 30 tỷ USD nhập khẩu hàng năm, lượng hàng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng rất lớn. Do khi mua hàng từ nước ngoài phải trả bằng ngoại tệ, nên khi bán, mặc dù có thể trả bằng tiền đồng, nhưng giá vẫn được yết bằng USD để tránh rủi ro tỷ giá. Hiện nay , các công ty có xu hướng niêm yết giá bằng đồng USD(nhất là các công ty kinh doanh hàng nhập khẩu) khi bán các sản phẩm của mình. Nguyên nhân cơ bản là để tránh rủi ro tỷ giá vì công ty khó có thể và cũng không muốn phải thay đổi giá bán liên tục theo sự thay đổi tỷ giá.
Chính những điều này đã tạo ra tâm lý cho rằng việc mua bán được thực hiện bằng USD chứ không phải tiền đồng
5/Nguyên nhân khác
_ Các tổ chức giáo dục quốc tế mở trung tâm đào tạo tại Việt Nam cũng thu học phí bằng ngoại tệ ( Riêng ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có rất nhiều trung tâm giáo dục quốc tế như ILA , ACET, APOLO, … các cở sở trường nước ngoài như RMIT,…)
_Tâm lý người dân thích dùng USD trong giao tiếp hằng ngày , nhất là sử dụng USD với chức năng thước đo giá trị.
_ Chúng ta cũng đã biết, lượng tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ (chủ yếu là USD) ngày càng tăng nhất là về lượng tuyệt đối. Với một lượng vốn ngoại tệ lớn như vậy thì các ngân hàng có 2 cách sử dụng
i) gửi ở các ngân hàng nước ngoài có lãi suất cao hơn để hưởng mức chênh lệch hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế.
ii) cho các doanh nghiệp trong nước vay
Cách thứ nhất đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn vốn lớn tuy nhiên hiệu quả mang lại không cao do giá USD trên thị trường thế giới biến đổi thất thường, ngân hàng dễ gặp phải thua lỗ. Do đó các ngân hàng thường dùng vốn vào cách thứ 2.
Đến đây xuất hiện một vấn đề đó là, việc ngân hàng cho doanh nghiệp trong nước vay bằng USD dẫn đến các giao dịch, thanh toán bằng USD gia tăng trên các loại thị trường, điều này càng đẩy nhanh quá trình đôla hóa.
CHƯƠNG 3 TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔLA HÓA
I/TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC
Mặc dù không quốc gia nào muốn một đồng tiền nước khác chi phối nền kinh tế của mình nhưng “đôla hóa”, dưới một góc độ nào đó, cũng có những tác động tích cực nhất định của nó.
1/ Đối với lạm phát
Đôla hóa làm giảm áp lực lạm phát và sự bất ổn kinh tế khi nền kinh tế rơi vào tình trạng này. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức
Bên cạnh đó, USD là đồng tiền đáng tin cậy nhất thế giới. Bất kỳ nước nào chấp nhận đô la hóa cũng sẽ chấp nhận chính sách tiền tệ của FED ( Cục dự trữ liên bang Mỹ). Nhờ đó, sẽ giảm thiểu các rủi ro về khả năng mất giá tiền tệ. Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.2/ Thêm cơ hội đầu tư có lợi:
Một lượng ngoại tệ lớn được gửi vào các Ngân hàng sẽ tạo thành nguồn vốn lớn để cho vay và đầu tư vào nền kinh tế, hạn chế việc đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của Ngân hàng gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các ngân hàng trong nước đem gửi ở nước ngoài. Người dân cũng sẽ được hưởng từ lãi suất hơn là cất giữ trong nhà và các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ.3/ Mở rộng hoạt đông ngân hàng
Với đô la hóa, các ngân hàng có một lượng ngoại tệ lớn sẽ có điều kiện mở rộng hoạt độ