Đô la Hoa

Thông thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Một khi nền kinh tế có tỉ lệ lạm phát cao, sức mua đồng bản tệ giảm xuống thì người dân phải tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng như làm thước đo giá trị. Như vậy, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc trong một số chức của tiền tệ thì có thể hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá” hay “dollar hoá”. Trên thế giới hiện nay, đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do nó là một ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi lớn nên thuật ngữ “dollar hoá” được xem là đồng nghĩa với “ngoại tệ hoá”. Hiện tượng dollar hoá được biểu hiện ở một số nước có thể xác định qua các hình thức: -Đồng dollar được xử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, trong công chúng qua các hành vi mua bán hàng hoá, trả phí dịch vụ, thanh toán nợ và tạo lập tài sản bằng đồng dollar. -Hệ thống ngân hàng cho xử dụng rộng rãi các loại tiền gửi, tiền tiết kiệm, trái phiếu ngân hàng bằng đồng dollar và cho vay bằng đồng dollar 1.1.2. Phân loại dollar hoá Theo IMF, tỉ lệ dollar hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ với các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng theo nghĩa rộng (M). Theo cách tính này, IMF cho rằng nếu tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi bị dollar hoá cao. Theo đánh giá của IMF quý I/2010, Việt Nam được xếp vào nước có mức độ “dollar hoá vừa phải” với tỉ lệ khoảng 16.5%-18%. Về cơ bản, dollar hoá gồm 3 loại chính là: Dollar không hoá chính thức (unoficial dollarization), dollar hoá bán chính thức (semioficial dollarization) và dollar hoá chính thức (official dollarization). Dollar hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nề kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính thức thừa nhận. Thuật ngữ “Dollar hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản ở nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp. Ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại không hợp pháp khi có tài khoản tại các ngân hàng nước ngoài trừ khi được cấp phép.

doc22 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3012 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đô la Hoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Mục lục……………………………………………………………………… 1 Danh sách nhóm……………………………………………………………..2 Nhận xét của giáo viên……………………………………………………....2 Phần I: vài nét về dollar hoá và thực trạng dollar hoá tại Việt Nam………………………………………………………………….3 Khái quát về dollar hoá…………………………………………………3 Khái niệm dollar hoá…………………………………………….3 Phân loại dollar hoá………………………………………………3 Thực trạng dollar hoá tại Việt Nam…………………………………….6 Phần II: nguyên nhân của tình trạng dollar hoá và những ảnh hưởng của dollar hoá tới nền kinh tế Việt Nam…………………………………..9 Nguyên nhân của tình trạng dollar hoá……………………………….9 Nguyên nhân sâu xa……………………………………………. 9 Nguyên nhân trực tiếp…………………………………………..9 Ảnh hưởng của tình trạng dollar hoá tới nền kinh tế Việt Nam…....12 Tác động tích cực……………………………………………….12 Tác động tiêu cực……………………………………………….13 Phần III: các quan điểm và kiến nghị…………………………………….16 Quan điểm của Nhà nước về dollar hoá………………………………16 Các giải pháp kiến nghị………………………………………………..16 Một số giải pháp được đề xuất…………………………………16 Những hạn chế của các giải pháp đã được đề xuất…………...17 Một số kiến nghị có khả năng thực hiện……………………….19 Kết luận……………………………………………………………………..22 DANH SÁCH NHÓM Họ và Tên  MSSV  Ghi chú   Trần Trọng Dinh  10201041    Trần Thị Cẩm Tú  10280041    Nguỵ Ngọc Trường  10279041    Nguyễn Hoà Bình  10239631    Hà Quỳnh Duyên  10253731    Lê Thị Hồng Ngân  10229691    Trịnh Thị Nguyệt Thức  10243761    Nguyễn Thị Băng Tâm  10200541    Trần Thị Phương Duyên  10257451    Khổng Thị Kim Oanh  10240071    Phạm Thị Phương Tâm  10242911    Trịnh Thị Thuý Kiều  10136611    Nguyễn Thị Mai Hương  10051891    Cao Bé Liễu  10074421    Phạm Thị Vân  10136331    NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... …………………………………………………………………...... NỘI DUNG Phần I: VÀI NÉT VỀ DOLLAR HOÁ VÀ THỰC TRẠNG DOLLAR HOÁ TẠI VIỆT NAM 1.1. Khái quát về dollar hoá 1.1.1. Khái niệm dollar hoá. Thông thường mỗi quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào cũng làm được. Một khi nền kinh tế có tỉ lệ lạm phát cao, sức mua đồng bản tệ giảm xuống thì người dân phải tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng như làm thước đo giá trị. Như vậy, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc trong một số chức của tiền tệ thì có thể hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá” hay “dollar hoá”. Trên thế giới hiện nay, đồng USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do nó là một ngoại tệ mạnh có khả năng chuyển đổi lớn nên thuật ngữ “dollar hoá” được xem là đồng nghĩa với “ngoại tệ hoá”. Hiện tượng dollar hoá được biểu hiện ở một số nước có thể xác định qua các hình thức: Đồng dollar được xử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, trong công chúng qua các hành vi mua bán hàng hoá, trả phí dịch vụ, thanh toán nợ và tạo lập tài sản bằng đồng dollar. Hệ thống ngân hàng cho xử dụng rộng rãi các loại tiền gửi, tiền tiết kiệm, trái phiếu ngân hàng bằng đồng dollar và cho vay bằng đồng dollar 1.1.2. Phân loại dollar hoá Theo IMF, tỉ lệ dollar hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ với các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng theo nghĩa rộng (M). Theo cách tính này, IMF cho rằng nếu tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi bị dollar hoá cao. Theo đánh giá của IMF quý I/2010, Việt Nam được xếp vào nước có mức độ “dollar hoá vừa phải” với tỉ lệ khoảng 16.5%-18%. Về cơ bản, dollar hoá gồm 3 loại chính là: Dollar không hoá chính thức (unoficial dollarization), dollar hoá bán chính thức (semioficial dollarization) và dollar hoá chính thức (official dollarization). Dollar hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong nề kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính thức thừa nhận. Thuật ngữ “Dollar hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản ở nước ngoài hợp pháp và không hợp pháp. Ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại không hợp pháp khi có tài khoản tại các ngân hàng nước ngoài trừ khi được cấp phép. Dollar hoá không chính thức có thể gồm các loại sau: Các trái phiếu phi ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài; Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài; Tiền gửi bằng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước; Trái phiếu hay các giấy tờ có giá trị bằng ngoại tệ cất trong túi. Dollar hoá không chính thức được chia làm 3 giai đoạn: Các nhà kinh tế thường gọi giai đoạn đầu của dollar hoá không chính thức là giai đoạn “thay thế tài sản” (asset substitution). trong giai đoạn này, người dân giữ trái phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát ở trong nước hay việc tịch thu tài sản xung công mà một số nước đã làm. Giai đoạn thứ hai của dollar hoá không chính thức được các nhà kinh tế gọi là giai đoạn “thay thế tiền tệ” (currency substitution). Trong giai đoạn này, người dân giữ một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước (nếu được phép). Ngoại tệ vừa thực hện chức năng là phương tiện thanh toán vừa là phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hằng ngày như tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nội tệ, nhưng với các tài sản giá trị hơn như xe cộ, nhà cửa thường được trả bằng ngoại tệ. Trong giai đoạn cuối cùng của dollar hoá không chính thức, giá cả của hàng hoá được niêm yết bằng nội tệ nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái. Dollar hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển. VD: Ở thời điểm tháng 1/2000, hầu hết các nước Mĩ_LaTinh và Caribe như Argentina, Bolivia, Mecico, Peru, Trung Mĩ; hầu hết các nước thuộc Liên Xô cũ như Armenia, Azerbajian, Georgia, Nga và Ukraine; nhiều nước khác như Mongolia, Mozambique, Romania, Thổ Nhĩ Kì và Việt Nam đều ở tình trạng dollar hoá không chính thức. Dollar hoá bán chính thức: khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các nước “dollar hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành hai đồng tiền. VD: Bahamas, Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Liberia. Ở các nước này, đồng ngoại tệ là đồng lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong hệ thống tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và các chi tiêu hằng ngày. Không giống các nước dollar hoá chính thức, các nước dollar hoá bán chính thức duy trì Ngân hàng trung ương (NHTƯ) như một cơ quan tiền tệ có quyền hạng tương ứng để thực hiện các chính sách tiền tệ của họ. Dollar hoá chính thức: hay còn gọi là dollar hoá hoàn toàn (full dollarization) xuất hiện khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn là hợp pháp trong các khoản thanh toán của chính phủ. Nếu đồng nội tệ tồn tại thì nó chỉ là những đồng xu hay những đồng tiền mệnh giá nhỏ. Các nước thường chỉ áp dụng dollar hoá chính thức khi thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Dollar hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước dollar hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp, chỉ có Andorra dùng cả đồng Franc của Pháp và đồng Petoza của Tây Ban Nha. Ở hầu hết các nước dollar hoá chính thức, các đối tác tư nhân được quyền kí kết hợp đồng bằng bất kì đồng ngoại tệ nào mà họ cùng đồng ý. Theo IMF, hiện có khoảng 14 nước được xếp là các nước dollar hoá chính thức. Theo nghiên cứu của cục dự trữ liên bang Mĩ, hiện tại, người nước ngoài nắm giữ khoảng 55% đến 70% số dollar Mĩ lưu hành. Còn theo ước tính của Bundesbank, người nước ngoại nắm ngữ khoảng 40% số dollar Mĩ được lưu hành. 1.2. Thực trạng dollar hoá ở Việt Nam Việc xuất hiện tình trạng dollar hoá ở Việt Nam ai cũng có thể nhận biết rằng, chỉ sau những năm đầu của cuộc đổi mới kinh tế, Nhà nước và nhân dân mới có dịp tiếp cận khá nhiều và thường xuyên sử dụng USD cho nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh và các nhu cầu của người dân. Cũng thời điểm đó, người ta mới bắt đầu làm quen với tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối, kinh tế ngoại tệ. Công cuộc đổi mới kinh tế đất nước thực sự làm cho mọi cánh cửa để phát triển kinh tế, giao lưu kinh tế với nước ngoài được mở theo nhiều hướng, đa dạng và phong phú. Đặc biệt trong lĩnh vực ngoại hối, ngoại tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sách mở cửa của nhà nước không chỉ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mà còn động viên, cổ vũ các nhà đầu tư trong nước. Đây chính là ngòi nổ, đột phá cho việc đẩy mạnh, phát triển và tăng cường mọi giao lưu kinh tế với bên ngoài. Do vậy, Luật Đầu Tư Nhà Nước ra đời, luật quản lý ngoại hối được thông qua đã mở cửa cho các đồng vốn nước ngoài và đồng USD nhanh chóng khẳng định vai trò của nó nhu có sẵn trên thị trường toàn cầu. Tình trạng dollar hoá ở Việt Nam có những biểu hiện chính sau: Thứ nhất: Hệ thống ngân hàng sử dụng rộng rãi các nghiệp vụ bằng đồng dollar. Có thể nói dư âm của lạm phát cao trên thế giới cuối thập khỉ 90 vẫn còn đọng lại trong tâm trí dân cư. Mặt khác, lãi suất tiết kiệm USD tăng dần khiến dân cư lựa chọn giải pháp an toàn là tiết kiệm bằng đồng ngoại tệ. Điều này làm làm cho tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số vốn huy động của ngân hàng có xu hướng tăng lên. Cơ cấu tiền gửi ngoại tệ trong tổng vốn huy động của hệ thống ngân hàng Năm  1994  1995  1996  1997  1998  1999  2000   Ngoại tệ  39,2  33,5  31,7  33,2  33,6  39,1  45,3   VND  60,8  66,5  68,3  66,8  66,4  60,9  54,7   Tổng  100  100  100  100  100  100  100   Đơn vị: % (số liệu đến hết tháng 9 năm 2001) [Nguồn: báo cáo thường niên của ngân hàng nhà nước năm 1999 và thời báo ngân hàng năm 2000.] Sự phát triển của nền kinh tế làm cho quan hệ thương mại giữa Việt Nam ngày càng đa dạng và mở rộng. Để thanh toán cho các hoạt động buôn bán, các bên xuất - nhập khẩu có thể sử dụng bất cứ đồng tiền của một quốc gia nào đó theo thoả thuận, thông thường là các đồng tiền mạnh. Nghiệp vụ cho vay ngoại tệ của NH nhờ đó mà tăng hơn. Cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng Năm  1994  1995  1996  1997  1998  1999  2000   Ngoại tệ  38,6  38,7  36,6  31,2  25,2  22,6  18,6   VND  61,4  61,3  63,4  68,8  74,8  77,4  81,4   Tổng  100  100  100  100  100  100  100   Đơn vị: % (Số liệu tính đến hết tháng 10/2000) [Nguồn: tạp chí NH năm 2000, TTXVN.] Trên cơ sở lý thuyết và xu hướng chung của nền kinh tế dollar hoá, các ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ nhiều hơn nên rủi ro phá giá cao hơn. Nhưng thực tế cho thấy vay ngoại tệ của hệ thống NH Việt Nam đến năm 2000 chiếm chưa đến 20% tổng dư nợ đối với nền kinh tế của hệ thống NH. Như vậy, những biểu hiện của hiện tượng dollar hoá ở nước ta chỉ diễn ra mạnh mẽ ở trạng thái dollar hoá tiền gửi. Thứ hai: Các ngân hàng thương mại (NHTM) có khối lượng USD lớn ở các NH nước ngoài được xem như là “Xuất khẩu tư bản”. Khi NH có sự chênh lệch giữa tỷ lệ tiền gửi và tỷ lệ tiền cho vay bằng ngoại tệ thì phần ngoại tệ chênh lệch đó sẽ được NH sử dụng để đầu tư kiếm lời cho mình thông qua các hoạt động trên thị trường quốc tế. Tỷ trọng sử dụng vốn so với huy động ngoại tệ của hệ thống NH Năm  1994  1995  1996  1997  1998  1999  2000   Tỷ trọng  135  148  151  104  73  47  33   Đơn vị:% (Nguồn: tạp chí NH 2000, TTXVN, báo cáo thường niên của NHNNVN 1999) Nhìn vào bảng ta thấy rõ mức độ sử dụng vốn huy động ngoại tệ trong giai đoạn 1994-1997, cho vay bằng ngoại tệ vượt khả năng huy động của các NH, do đó nguồn vốn nước ngoài sẽ bù đắp nguồn vốn thiếu hụt này. Giai đoạn 1998-2000 có xu hướng ngược lại, đầu tư tín dụng cho nền kinh tế chỉ chiếm một phần vốn huy động. Giải toả phần vốn huy động ngoại tệ dư thừa, các NH kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế hay đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Một mâu thuẫn nảy sinh là trong khi cán cân thương mại của cả nước là nhập siêu, cần phải có ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu cấp bách và các doanh nghiệp thiếu vốn phải đi vay nước ngoài thì chúng ta gửi một khối lượng USD không nhỏ ở nước ngoài. Sự “đảo hối” này do chính sách tiền tệ và những chính sách kinh tế vĩ mô khác tạo ra là chưa hợp lý. Thứ ba: Xu hướng sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa. đặc biệt dollar hoá phổ biến trong thời kì có lạm phát cao, tốc độ lưu thông tiền tệ trong nước tăng nhanh, USD lên giá liên tục với tốc độ tăng giá lớn hơn nhiều so với chỉ số giá. Năm 1988 là 432,6%; năm 1990 là 145,4% và năm 1991 là 203,1%. Đáng quan tâm là năm 1999 và 2000 trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,5% (năm 1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%) thì sức mua đối nội của VND tăng lên, nhưng sức mua đối ngoại lại giảm 4,5% do tỷ giá VND/USD năm 1999 giảm 1,1%, năm 2000 giảm 3,4%. Tỷ giá từ đầu năm 2001 đến quý III/2001 tăng nhanh nhất nhưng chỉ số giá không tăng. Từ đó việc sử dụng USD để tích luỹ tài sản danh nghĩa trở lên hấp dẫn hơn. Thứ tư: Đồng USD được lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam một cách tương đối phổ biến. USD được sử dụng để biểu hiện giá trị và đo lường giá trị của các hàng hoá dịch vụ. Giá cả hàng hoá được công khai ấn định bằng USD và được đăng tải trên các thông tin và giá cả thị trường. Thứ năm: Việc sử dụng USD đã nhiễm vào Việt Nam và trở thành như một tập tục trong các hoạt động mua bán, thanh toán sinh hoạt với những tên gọi rất đơn giản về đơn vị tiền tệ (100USD = 1 tờ = 1 vé). Hiện tượng này có thể thấy rõ trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của các ngành dịch vụ. Song song với việc tồn tại thanh toán bằng VND thì ở các nhà hàng, khách sạn, siêu thị, khách hàng kể cả người dân trong nước hay người nước ngoài đề có thể dễ dàng thanh toán bằng USD. Hiện tượng sử dụng USD đã xâm nhập vào mọi hoạt động của người dân Viêt Nam, từ việc mua kinh kiện máy vi tính cho đến phương tiện đi lại đều có thể dễ dàng giao dịch bằng USD. Ngoài ra, USD còn là phương tiện cất trữ thuận tiện, tổng hợp với các hoạt động kinh tế ngầm nhất là với các tổ chức buôn lậu. Phần II: NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG DOLLAR HOÁ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA DOLLAR HOÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2.1. Nguyên nhân của tình trạng dollar hoá Hiện tượng dollar hoá đang là một vấn đề gây tranh cãi trong thời gian qua, các NH cũng như các nhà kinh tế học đã để xuất những ý kiến khác nhau về những nguyên nhân nào gây ra tình trạng dollar hoá. Họ đều phát hiện ra rằng hiện tượng dollar hoá thường xảy ra ở những nước có lạm phát cao và hậu quả của lạm phát. Tuy nhiên lạm phát không phải là nguyên nhân duy nhất giải thích hiện tượng dollar hoá trong thời kì hiện nay khi lạm phát đã được kiềm chế và kiểm soát với tỷ lệ thấp. 2.1.1. Nguyên nhân sâu xa Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của tình trạng dollar hoá ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới thì đó là: Trình độ phát triển nền kinh tế, cùng tính chất của nền kinh tế đó. Dollar hoá thường rơi vào các nước có trình độ phát triển còn thấp, các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi qua nền kinh tế thị trường. Buôn lậu chưa được kiểm soát nhất là buôn lậu qua biên giới, buôn bán tiểu ngạch. Trình độ dân trí, cùng tâm lý người dân. Các nước có trình độ dân trí chưa cao, người dân còn thói quen nắm giữ vàng và dollar thì thường là nền kinh tế có mức dollar hoá cao. Trình độ phát triển của hệ thống NH, nhất là hoạt động thanh toán. Rõ ràng khi hoạt động NH còn non trẻ, hoạt động thanh toán chưa phát triển, công nghệ thanh toán còn lạc hậu, thì thường có tình trạng dollar hoá ở nền kinh tế. Chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, cùng mức độ đảm bảo tính nghiêm minh của cơ chế quản lý. Nếu như đồng nội tệ ổn định, cơ chế quản lý ngoại hối chặt chẽ, thì tình trạng dollar hoá nền kinh tế rất khó xảy ra. Khả năng chuyển đổi đồng nội tệ - đồng tiền của quốc gia đó. 2.1.2. Nguyên nhân trực tiếp Ngoài những nguyên nhân trên, tình trạng dollar hoá còn do những yếu tố sau: Biến động về ngoại tệ tại hệ thống NH trong những năm qua đặc biệt là năm 1999 và 2000 chịu ảnh hưởng của tác động bên ngoài như sự mở rộng xu hướng toàn cầu hoá từ những năm 1990, hay việc gia nhập WTO; sự tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế Mĩ đã làm cho đồng dollar Mĩ ngày càng có sức mạnh và có tính hấp dẫn hơn so với các đồng tiền khác, trong đó có cả đồng Việt Nam. Thêm vào đó, từ năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu Á xảy ra đã có những tác động nhất định làm giảm giá trị của đồng Việt Nam, và ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế trong nước. Trong khi đó, thu nhập của các tầng lớ