Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một doanh nghiệp công nghiệp nào khi tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều phải xuất phát từ yêu cầu của thị
trường, nhằm trả lời được 3 câu hỏi cơ bản "Cái gì, như thế nào, cho ai". Thị trường
vừa được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc của quá trình sản xuất kinh
doanh, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Có thể nói một doanh nghiệp chỉ làm
ăn có hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường, tận dụng một cách năng động, linh hoạt
những cơ hội trên thị trường. Hay nói cách khác, thông qua thị trường, sản phẩm
hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được diễn ra một cách liên tục trên cơ sở thực hiện được các mục tiêu
đã đề ra. Vì thế duy trì và mở rộng thị trường được coi là một trong những nhiệm vụ
cơ bản và lâu dài của doanh nghiệp, đặc biệt trong quá trình hội nhập của nền kinh tế
đất nước với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động trong cơ chế thị trường cũng
đồng nghĩa với việc phải luôn luôn đối mặt với các rủi ro thách thức trong quá trình
cạnh tranh khốc liệt. Để phát triển thị trường một cách có hiệu quả, trước hết doanh
nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng nhận thức về thị trường. Tiếp đó
doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu môi trường và khách hàng, sử dụng các
thông tin, dữ liệu đó để phán đoán thị trường lựa chọn mục tiêu thị trường, lập kế
hoạch chiến lược kinh doanh, kế hoạch duy trì thị trường cũ, chiếm lĩnh thị trường
mới. Sau cùng là triển khai thực hiện kế hoạch thông qua 4 công cụ (sản phẩm, giá
cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp) .
65 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3262 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tại Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Duy trì và mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn
phích nước Rạng Đông
Mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một doanh nghiệp công nghiệp nào khi tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đều phải xuất phát từ yêu cầu của thị
trường, nhằm trả lời được 3 câu hỏi cơ bản "Cái gì, như thế nào, cho ai". Thị trường
vừa được coi là điểm xuất phát cũng vừa là điểm kết thúc của quá trình sản xuất kinh
doanh, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Có thể nói một doanh nghiệp chỉ làm
ăn có hiệu quả khi nó xuất phát từ thị trường, tận dụng một cách năng động, linh hoạt
những cơ hội trên thị trường. Hay nói cách khác, thông qua thị trường, sản phẩm
hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ, giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được diễn ra một cách liên tục trên cơ sở thực hiện được các mục tiêu
đã đề ra. Vì thế duy trì và mở rộng thị trường được coi là một trong những nhiệm vụ
cơ bản và lâu dài của doanh nghiệp, đặc biệt trong quá trình hội nhập của nền kinh tế
đất nước với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên hoạt động trong cơ chế thị trường cũng
đồng nghĩa với việc phải luôn luôn đối mặt với các rủi ro thách thức trong quá trình
cạnh tranh khốc liệt. Để phát triển thị trường một cách có hiệu quả, trước hết doanh
nghiệp cần nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng nhận thức về thị trường. Tiếp đó
doanh nghiệp cần phải tiến hành nghiên cứu môi trường và khách hàng, sử dụng các
thông tin, dữ liệu đó để phán đoán thị trường lựa chọn mục tiêu thị trường, lập kế
hoạch chiến lược kinh doanh, kế hoạch duy trì thị trường cũ, chiếm lĩnh thị trường
mới. Sau cùng là triển khai thực hiện kế hoạch thông qua 4 công cụ (sản phẩm, giá
cả, phân phối, xúc tiến hỗn hợp) .
Trong tình hình thực tế hiện nay ngành sản xuất bóng đèn, phích nước ở Việt
Nam đang phát triển nhanh chóng và thu được nhiều thành tựu đáng kể trên cả thị
trường trong và ngoài nước. Hoà chung trong trào lưu đó, Công ty bóng đèn phích
nước Rạng Đông (với chất lượng hàng đầu của Việt Nam) cũng là một công ty sản
xuất hiệu quả càng ngày càng có nhiều khách hàng ưa chuộng tiêu dùng sản phẩm
của Công ty. Đây là một thế mạnh lớn nhưng bên cạnh đó Công ty đã gặp phải không
ít khó khăn. Thiết nghĩ cần ngay từ bây giờ phải có phương hướng phát triển đúng
đắn. Xuất phát từ vai trò của thị trường và tình hình thực tế của Công ty bóng đèn
phích nước Rạng Đông, em xin chọn đề tài "Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm ở Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông".
Đề tài gồm 3 phần lớn sau:
- Phần thứ nhất: Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường
- Phần thứ hai: Thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Công ty bóng đèn
phích nước Rạng Đông
- Phần thứ ba: Một số biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm của Công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông
Phần thứ nhất
Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế
thị trường
I. Một số vấn đề cơ bản về thị trường
1) Khái niệm: Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi
trường để tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi
doanh nghiệp công nghiệp. Trong một xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết
chỉ là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và người bán mà doanh nghiệp
và khách hàng có thể chỉ giao dịch, thoả thuận với nhau thông qua các phương tiện
thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát triển sản xuất hàng hoá, khái niệm thị
trường ngày càng trở lên phong phú và đa dạng. Có một số khái niệm phổ biến về thị
trường như sau:
1.1. Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt động
mua bán giữa người mua và người bán.
1.2. Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết
định của các gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của doanh
nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người lao động
về việc làm bao lâu, cho ai đều được điều chỉnh bằng giá cả.
1.3. Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua và
người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán nhiều hay ít
phản ánh qui mô của thị trường lớn và nhỏ. Việc xác định nên mua hay bán hàng hoá
và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do quan hệ cung cầu quyết định. Từ đó
ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện sự kết hợp giữa 2 khâu sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá.
1.4. Thị trường là phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ bản
của thị trường được thể hiện qua 3 yếu tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau: Nhu cầu
hàng hoá dịch vụ, cung ứng hàng hoá dịch vụ và giá cả hàng hoá dịch vụ.
1.5. Khái niệm thị trường hoàn toàn không tách rời khái niệm phân công lao
động xã hội. Các Mác đã nhận định "Hễ ở đâu và khi nào có sự phân công lao động
xã hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị trường chẳng
qua là sự biểu hiện của phân công lao động xã hội và do đó có thể phát triển vô cùng
tận".
1.6. Thị trường về vấn đề Marketing được hiểu là bao gồm tất cả những khách
hàng tiềm ẩn cùng có nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham
gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Tóm lại thị trường được hiểu là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu của một loạt hàng
hoá, dịch vụ nào đó hay cho một đối tượng khác có giá trị. Ví dụ như thị trường sức
lao động bao gồm những người muốn đem sức lao động của mình để đổi lấy tiền
công hoặc hàng hoá. Để công việc trao đổi trên được thuận lợi, dần dần đã xuất hiện
nhiều những tổ chức kiểu văn phòng, trung tâm giới thiệu xúc tiến việc làm cho
người lao động. Cũng tương tự như thế thị trường tiền tệ đem lại khả năng vay mượn,
cho vay tích luỹ tiền và bảo đảm an toàn cho các nhu cầu tài chính của các tổ chức,
giúp họ có thể hoạt động liên tục được. Như vậy điểm lợi ích của người mua và
người bán hay chính là giá cả được hình thành trên cơ sở thoả thuận và nhân nhượng
lẫn nhau giữa cung và cầu.
2. Phân loại và phân đoạn thị trường
2.1. Phân loại thị trường
Một trong những điều kiện cơ bản để sản xuất kinh doanh có hiệu quả là doanh
nghiệp phải hiểu biết về thị trường và việc nghiên cứu phân loại thị trường là rất cần
thiết. Có 4 cách phân loại thị trường:
* Phân loại theo phạm vi lãnh thổ
+ Thị trường địa phương: tập hợp khách hàng trong phạm vi địa phương nơi
thuộc địa phận phân bổ của doanh nghiệp.
+ Thị trường vùng: tập hợp những khách hàng ở một vùng địa lý nhất định.
Vùng này được hiểu như một khu vực địa lý rộng lớn có sự đồng nhất về kinh tế - xã
hội.
+ Thị trường toàn quốc: hàng hoá và dịch vụ được lưu thông trên tất cả các
vùng, các địa phương của một nước.
+ Thị trường quốc tế: là nơi diễn ra các giao dịch buôn bán hàng hoá và dịch vụ
giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau.
* Phân loại theo mối quan hệ giữa những người mua và người bán.
+ Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: trên thị trường có nhiều người mua và người
bán cùng một loại hàng hoá, dịch vụ. Hàng hoá đó mang tính đồng nhất và giá cả là
do thị trường quyết định.
+ Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người mua
và người bán cùng một loại hàng hoá, sản phẩm nhưng chúng không đồng nhất. Điều
này có nghĩa loại hàng hoá sản phẩm đó có nhiều kiểu dáng, mẫu mã, bao bì, nhãn
hiệu kích thước... khác nhau. Giá cả hàng hoá được ấn định một cách linh hoạt theo
tình hình tiêu thụ trên thị trường.
+ Thị trường độc quyền: trên thị trường chỉ có một hoặc một nhóm người liên
kết với nhau cùng sản xuất ra một loại hàng hoá. Họ có thể kiểm soát hoàn toàn số
lượng dự định bán ra thị trường cũng như giá cả của chúng.
* Phân loại theo mục đích sử dụng của hàng hoá:
+ Thị trường tư liệu sản xuất: đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị trường là
các loại tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, năng lượng, động lực, máy móc thiết bị.
+ Thị trường tư liệu tiêu dùng: đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị trường là
các vật phẩm tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của dân cư như đồ dùng
dân dụng, quần áo, các loại thức ăn chế biến.
* Phân loại theo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp:
+ Thị trường đầu vào: là nơi doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm mua
các yếu tố đầu vào (thị trường lao động, thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường khoa
học công nghệ, thị trường bất động sản...).
+ Thị trường đầu ra: là nơi doanh nghiệp tiến hành các giao dịch nhằm bán các
loại sản phẩm đầu ra của mình. Tuỳ theo tính chất sử dụng sản phẩm hàng hoá của
doanh nghiệp mà thị trường đầu ra là thị trường tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng.
2.2. Phân đoạn thị trường:
Hiện nay, dân số trên thế giới đã đạt tới con số trên 6 tỉ người, một con số
khổng lồ và được phân bố trên phạm vi rộng với những sở thích thói quen khác nhau.
Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được rằng làm cho tất cả mọi người ưa thích sản
phẩm của mình ngay là một điều không tưởng và không thể được. Trước hết họ cần
phải khôn khéo tập trung vào phục vụ một bộ phận nhất định của thị trường, tìm mọi
cách hấp dẫn và chinh phục nó. Từ đó xuất hiện khái niệm "phân đoạn thị trường".
Nó được hiểu là việc phân chia thị trường thành những nhóm người mua hàng khác
nhau theo độ tuổi, giới tính, mức thu nhập, tính cách, thói quen, trình độ học vấn...
Không hề có một công thức phân đoạn thị trường thống nhất nào cho tất cả các doanh
nghiệp mà họ buộc phải thử các phương án phân đoạn khác nhau trên cơ sở kết hợp
những tham biến khác nhau theo ý tưởng của riêng mình. Tuy nhiên có thể tóm lại 4
nguyên tắc phân đoạn thị trường tiêu dùng như sau:
* Nguyên tắc địa lý: nguyên tắc này đòi hỏi chia cắt thị trường thành các khu
vực địa lý khác nhau như quốc gia, tỉnh, thành phố, xã, miền...; Thành các khu vực có
mật độ dân số khác nhau như thành thị, nông thôn; Thành các khu vực có trình độ
dân trí khác nhau như miền núi, đồng bằng...
* Nguyên tắc nhân khẩu học: là phân chia thị trường thành những nhóm căn cứ
vào biến nhân khẩu học như giới tính, mức thu nhập, tuổi tác, qui mô gia đình, giai
đoạn của chu kỳ gia đình, loại nghề nghiệp, trình độ học vấn, tôn giáo, tín ngưỡng và
dân tộc. Đây là các biến phổ biến nhất làm cơ sở để phân biệt các nhóm người tiêu
dùng. Điều này có thể lý giải bởi sở thích, mong muốn hay nhu cầu của khách hàng
có liên quan chặt chẽ tới đặc điểm về nhân khẩu học. Hơn nữa các biến này dễ đo
lường, đơn giản và dễ hiểu hơn đa số các biến khác.
+ Biến giới tính đã được áp dụng từ lâu trong việc phân đoạn các thị trường thời
trang quần áo, mỹ phẩm, sách báo, đồ dùng dân dụng... ở đây có sự khác biệt khá rõ
nét trong thị hiếu tiêu dùng giữa nam và nữ.
+ Tuổi tác khác nhau cũng dẫn đến những nhu cầu khác nhau. Ví dụ thị trường
kem đánh răng đối với trẻ em: cần chú ý đến một số tiêu thức như độ ngọt cao, có thể
nuốt được và chống sâu răng; đối với thanh niên cần có nhu cầu về làm bóng, trắng
răng và hương thơm; đối với người già nổi bật là nhu cầu làm cứng và chắc răng.
+ Cuối cùng việc doanh nghiệp có tiêu thụ được sản phẩm của mình hay không
lại phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng có nhu cầu. Mức thu nhập của
người dân cao thì khả năng thanh toán mới lớn. Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng
phương pháp giá phân biệt cho các tầng lớp lao động trong xã hội và đã thu được
nhiều thành công.
* Nguyên tắc hành vi: Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc hành vi là việc
phân chia người mua thành nhiều nhóm khác nhau theo các biến lý do mua hàng, lợi
ích mong muốn thu được, tình trạng người sử dụng cường độ tiêu dùng, mức độ trung
thành, mức độ sẵn sàng chấp nhận hàng và thái độ đối với món hàng đó. Có nguyên
tắc này bởi vì người tiêu dùng quyết định mua hàng hoá nhằm thoả mãn một lợi ích
đang mong đợi nào đó. Nếu sản phẩm đủ sức hấp dẫn, họ sẽ trở thành khách hàng
thường xuyên và trung thành của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn đứng vững
trên thị trường thì điều cần thiết nhất không phải là đẩy mạnh tiêu thụ mà phải nhận
biết, hiểu kỹ lưỡng hành vi của khách hàng để đáp ứng đúng thị hiếu của từng nhóm
khách hàng một và từ đó sản phẩm sẽ tự được tiêu thụ trên thị trường.
* Nguyên tắc tâm lý: Phân đoạn thị trường theo nguyên tắc tâm lý là việc phân
chia người mua thành những nhóm theo đặc điểm giai tầng xã hội, lối sống và đặc
tính nhân cách. Nguồn gốc giai tầng có ảnh hưởng mạnh đến sở thích của con người,
đặc biệt là đối với đồ dùng dân dụng, quần áo, thói quen nghỉ ngơi, đi du lịch, đọc
sách báo... Những người thuộc tầng lớp trung lưu thường đi tìm những sản phẩm
hàng đầu, hàm chứa nhiều giá trị thẩm mỹ độc đáo và thậm chí cả cách chơi chữ, còn
những người thuộc tầng lớp hạ lưu lại vừa lòng với sản phẩm thông thường nhất, phù
hợp với túi tiền của mình. Ngoài ra phong cách hay lối sống thường ngày cũng được
thể hiện khá rõ trong cách tiêu dùng của người dân. Những người "cổ hủ" thường
thích những đồ dùng, kiểu cách giản dị, tiện lợi, hay những người năng động, cởi mở
lại là những người thích các loại xe môtô dáng thể thao khoẻ mạnh... Các doanh
nghiệp khi thiết kế sản xuất hàng hoá, dịch vụ đưa vào những tính chất và đặc tính
làm vừa lòng khách hàng.
II. Vai trò và chức năng của thị trường
1. Vai trò của thị trường
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp góp phần vào việc thoả mãn các
nhu cầu của thị trường, kích thích sự ra đời của các nhu cầu mới và nâng cao chất
lượng nhu cầu... Tuy nhiên trong cơ chế thị trường, thị trường có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thị trường vừa
là động lực, vừa là điều kiện và vừa là thước đo kết quả, hiệu quả hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp.
* Là động lực: thị trường đặt ra các nhu cầu tiêu dùng, buộc các doanh nghiệp
nếu muốn tồn tại được phải luôn nắm bắt các nhu cầu đó, sản xuất kinh doanh theo
các nhu cầu đó và định hướng mục tiêu hoạt động cũng phải xuất phát từ những nhu
cầu đó. Ngày nay mức sống của người dân được tăng lên rõ rệt do đó khả năng thanh
toán của họ cũng cao hơn, nhu cầu nhiều hơn nhưng lại khắt khe hơn. Bên cạnh đó,
các cơ sở sản xuất kinh doanh thay nhau ra đời cạnh tranh dành giật khách hàng một
cách gay gắt bởi vì thị trường có chấp nhận thì doanh nghiệp mới tồn tại được nếu
ngược lại sẽ bị phá sản. Vậy thị trường là động lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Là điều kiện: thị trường bảo đảm cung ứng có hiệu quả các yếu tố cần thiết để
doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình. Nếu doanh
nghiệp có nhu cầu về một loại yếu tố sản xuất nào đó thì tình hình cung ứng trên thị
trường sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tiêu cực hoặc tích cực tới kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vậy thị trường là điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
* Là thước đo: thị trường cũng kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các
phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các trường hợp khó khăn
đòi hỏi phải có sự tính toán cân nhắc trước khi ra quyết định. Mỗi một quyết định đều
ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp. Thị trường có chấp
nhận, khách hàng có ưa chuộng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp thì mới chứng
minh được phương án kinh doanh đó có hiệu quả hay không hay thất bại. Vậy thị
trường là thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy thông qua thị trường (mà trước hết là hệ thống giá cả) các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực. Trên thị trường, giá cả
hàng hoá và dịch vụ, giá cả với yếu tố đầu vào (như máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu, đất đai, lao động, vốn...) luôn luôn biến động nếu phải sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực để tạo ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường và
xã hội.
2. Chức năng của thị trường
2.1. Chức năng thừa nhận:
Nếu sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra tiêu thụ được trên thị trường, tức là khi
đó hàng hoá của doanh nghiệp đã được thị trường chấp nhận, lúc ấy sẽ tồn tại một số
lượng khách hàng nhất định có nhu cầu và sẵn sàng trả tiền để có hàng hoá nhằm thoả
mãn nhu cầu đó và quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp, nhờ thế mà cũng được
thực hiện. Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ đưa ra giao
dịch, tức thừa nhận giá trị và giá trị sử dụng của chúng chuyển giá trị cá biệt thành
giá trị xã hội. Sự phân phối và phân phối lại các nguồn lực nói lên sự thừa nhận của
thị trường. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh
doanh phải tìm hiểu kỹ thị trường, đặc biệt là nhu cầu thị trường. Xác định cho được
thị trường cần gì với khối lượng bao nhiêu.
2.2. Chức năng thực hiện của thị trường:
Thông qua các hoạt động trao đổi trên thị trường, người bán và người mua thực
hiện được các mục tiêu của mình. Người bán nhận tiền và chuyển quyền sở hữu hàng
hoá cho người mua. Đổi lại, người mua trả tiền cho người bán để có được giá trị sử
dụng của hàng hoá. Tuy nhiên sự thực hiện về giá trị chỉ xẩy ra khi thị trường đã chấp
nhận giá trị sử dụng của hàng hoá. Do đó khi sản xuất hàng hoá và dịch vụ doanh
nghiệp không chỉ tìm mọi cách để giảm thiểu các chi phí mà còn phải chú ý xem lợi
ích đem lại từ sản phẩm có phù hợp với nhu cầu thị trường hay không. Như vậy thông
qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá và dịch vụ hình thành nên các
giá trị trao đổi của mình để làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực.
2.3. Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường
Cơ chế thị trường điều tiết việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tức là kích thích các
doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào các lĩnh vực có mức lợi nhuận hấp dẫn, có tỉ
suất lợi nhuận cao, tạo ra sự di chuyển tư liệu sản xuất từ ngành này sang ngành
khác. Thể hiện rõ nhất của chức năng điều tiết là sự đào thải trong quy luật cạnh
tranh. Doanh nghiệp nào, bằng chính nội lực của mình, có thể thoả mãn tốt nhất nhu
cầu của thị trường phản ứng một cách kịp thời, linh hoạt sáng tạo với các biến động
của thị trường thì sẽ tồn tại và phát triển hoặc ngược lại. Ngoài ra thị trường còn
hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng theo mục đích có lợi nhất nguồn nhân sách của
mình. Chức năng này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm được chu kì sống của sản
phẩm, để xem sản phẩm đang ở giai đoạn nào, tức là xem xét mức độ hấp dẫn của thị
trường đến đâu đề từ đó có các chính sách phù hợp.
2.4. Chức năng thông tin của thị trường
Chức năng này thể hiện ở chỗ, thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên sản
xuất hàng hoá và dịch vụ nào, bằng cách nào và khối lượng là bao nhiêu để đưa vào
thị trường tại thời điểm nào là thích hợp và có lợi nhất, chỉ cho người tiêu dùng biết
nên mua những loại hàng hoá và dịch vụ gì tại thời điểm nào là có lợi cho mình. Thị
trường sẽ cung cấp cho người sản xuất và người tiêu dùng những thông tin sau: Tổng
số cung, tổng số cầu, cơ cấu của cung và cầu, quan hệ cung cầu đối với từng loại
hàng hoá và dịch vụ, các điều kiện tìm kiếm hàng hoá và dịch vụ, các đơn vị sản xuất
và phân phối... Đây là những thông tin quan trọng cho cả người sản xuất và người
tiêu dùng để đề ra các quyết định thích hợp đem lại lợi ích hiệu quả cho họ.
Để có được những thông tin này doanh nghiệp phải tổ chức tốt hệ thống thông
tin của mình bao gồm các ngân hàng thống kê và ngân hàng mô hình cũng như các
phương pháp thu thập và xử lý thông tin nhằm cung cấp những thông tin về thị
trường cho lãnh đạo doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch chiến lược, kế hoạch phát
triển thị trường.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị
trường
1. Các yếu tố cấu thành nên thị trường
1.1. Cầu thị trường
Cầu về một loại hàng hoá dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà
người mua sẵn