Ghép kênh tín hiệu số Công nghệ ADSL

Trong những năm gần đây, nhu cầu về thông tin đang phát triển như vũ bão trên thế giới nói chung cũng như tại Việt Nam nói riêng, đặc biệt là nhu cầu về dịch vụ băng rộng. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng các nhà khai thác và cung cấp dịch vụ viễn thông đã đưa ra nhiều giải pháp khác nhau. Mỗi giải pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Trong khi việc cáp quang hoá hoàn toàn mạng viễn thông chưa thực hiện được vì giá thành các thiết bị quang vẫn còn cao thì công nghệ đường dây thuê bao số (xDSL) là một giải pháp hợp lý. Trên thế giới nhiều nước đã áp dụng công nghệ này và đã thu được thành công đáng kể. Ở Việt Nam công nghệ xDSL cũng đã được triển khai trong những năm gần đây và cũng đã thu được những thành công nhất định về mặt kinh tế cũng như giải pháp mạng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng (năm 2003 tổng số thuê bao băng rộng trên thế giới là 60 triệu thuê bao đến năm 2005 đã đạt tới 107 triệu thuê bao). Tuy nhiên, do những giới hạn nhất định đặc biệt là về mặt công nghệ nên tốc độ truyền số liệu vẫn còn thấp chưa đáp ứng được hết những nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra trong những năm tiếp theo là áp dụng các công nghệ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng đặc biệt là nhu cầu về dịch vụ băng rộng. Một trong những công nghệ có thể đáp ứng các nhu cầu trên đó là công nghệ ADSL2+. Công nghệ này thuộc họ công nghệ ADSL, với băng tần được mở rộng, nó có thể đáp ứng được các dịch vụ băng rộng hiện tại và trong tương lai. Công nghệ này đã được chuẩn hoá bởi ITU và được phát triển bởi nhiều hãng cung cấp thiết bị trên thế giới. Nhằm mục đích tìm hiểu về công nghệ ADSL cùng khả năng ứng dụng ADSL2+, đề tài được xây dựng với bố cúc như sau:  Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển DSL.  Chương 2: Tổng quan các công nghệ DSL.  Chương 3: Công nghệ ADSL.  Chương 4: Công nghệ ADSL2.  Chương 5: Công nghệ ADSL2+.  Chương 6: Khả năng ứng dụng công nghệ ADSL2+.

doc50 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2351 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ghép kênh tín hiệu số Công nghệ ADSL, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tập lớn môn Ghép kênh tín hiệu số Công nghệ ADSL MỤC LỤC MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC CÔNG NGHỆ DSL 5 CHƯƠNG 3: CÔNG NGHỆ ADSL 6 3.1 Mô hình tham chiếu của hệ thống ADSL 6 3.2 Mạng ADSL 7 3.3 Các thành phần thiết yếu của ADSL 8 3.4 Kỹ thuật truyền dẫn trong ADSL 10 3.5 Các phương pháp điều chế 11 3.6 Ghép kênh 14 3.7 Cấu trúc siêu khung và khung ADSL 17 CHƯƠNG 4: CÔNG NGHỆ ADSL2 21 4.1 Các mô hình tham chiếu 21 4.1.1 Mô hình chức nang ATU 21 4.1.2 Mô hình tham chiếu giao thức khách hàng 22 4.1.3 Mô hình tham chiếu quản lý 23 4.2 Một số tính nang mới của công nghệ ADSL2 23 4.2.1 Các tính năng liên quan đến ứng dụng 23 4.2.2 Các tính năng liên quan đến PMS-TC 26 4.2.3 Các tính năng liên quan đến PMD 29 4.3 Kết luận về công nghệ ADSL2 33 CHƯƠNG 5: CÔNG NGHỆ ADSL2+ 34 5.1 Một số tính năng mới của ADSL2+ so với ADSL2 34 5.2 Một số tính năng mới của ADSL2+ so với ADSL 38 5.3 Kết luận về công nghệ ADSL2+ 39 CHƯƠNG 6: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ ADSL2+ 41 6.1 Tình hình phát triển công nghệ xDSL trên thế giới 41 6.2 Tình hình triển khai ứng dụng công nghệ ADSL2+ 41 6.3 Khả năng ứng dụng công nghệ ADSL2+ tại Việt Nam 42 6.3.1 Triển khai các dịch vụ yêu cầu tốc độ cao 42 6.3.2 Tránh ảnh hưởng của nhiễu xuyên âm 47 6.3.3 Khả năng nâng cấp ADSL2+ từ ADSL 48 MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, nhu cầu về thông tin đang phát triển như vũ bão trên thế giới nói chung cũng như tại Việt Nam nói riêng, đặc biệt là nhu cầu về dịch vụ băng rộng. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng các nhà khai thác và cung cấp dịch vụ viễn thông đã đưa ra nhiều giải pháp khác nhau. Mỗi giải pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Trong khi việc cáp quang hoá hoàn toàn mạng viễn thông chưa thực hiện được vì giá thành các thiết bị quang vẫn còn cao thì công nghệ đường dây thuê bao số (xDSL) là một giải pháp hợp lý. Trên thế giới nhiều nước đã áp dụng công nghệ này và đã thu được thành công đáng kể. Ở Việt Nam công nghệ xDSL cũng đã được triển khai trong những năm gần đây và cũng đã thu được những thành công nhất định về mặt kinh tế cũng như giải pháp mạng và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng (năm 2003 tổng số thuê bao băng rộng trên thế giới là 60 triệu thuê bao đến năm 2005 đã đạt tới 107 triệu thuê bao). Tuy nhiên, do những giới hạn nhất định đặc biệt là về mặt công nghệ nên tốc độ truyền số liệu vẫn còn thấp chưa đáp ứng được hết những nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra trong những năm tiếp theo là áp dụng các công nghệ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng đặc biệt là nhu cầu về dịch vụ băng rộng. Một trong những công nghệ có thể đáp ứng các nhu cầu trên đó là công nghệ ADSL2+. Công nghệ này thuộc họ công nghệ ADSL, với băng tần được mở rộng, nó có thể đáp ứng được các dịch vụ băng rộng hiện tại và trong tương lai. Công nghệ này đã được chuẩn hoá bởi ITU và được phát triển bởi nhiều hãng cung cấp thiết bị trên thế giới. Nhằm mục đích tìm hiểu về công nghệ ADSL cùng khả năng ứng dụng ADSL2+, đề tài được xây dựng với bố cúc như sau: Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển DSL. Chương 2: Tổng quan các công nghệ DSL. Chương 3: Công nghệ ADSL. Chương 4: Công nghệ ADSL2. Chương 5: Công nghệ ADSL2+. Chương 6: Khả năng ứng dụng công nghệ ADSL2+. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC CÔNG NGHỆ DSL Trong xu hướng số hoá mạng viễn thông trên toàn thế giới, mạng liên kết số đa dịch vụ ISDN (Intergrated Services Digital Network) và đường dây thuê bao số DSL (Digital Subcriber Line) đã đáp ứng được nhiệm vụ số hoá mạng viễn thông đến tận phía khách hàng. Có thể nói rằng ISDN là dịch vụ DSL đầu tiên cung cấp cho khách hàng giao diện tốc độ cơ sở BRI (Basic Rate Interface) 144 kbps, được cấu thành từ hai kênh B 64 kbps và một kênh D 16 kbps. Cùng với mạng ISDN, một công nghệ mới có nhiều triển vọng với tên gọi chung là xDSL, trong đó x biểu thị cho các kỹ thuật khác nhau. Kỹ thuật xDSL là kỹ thuật truyền dẫn cáp đồng, nó đạt được tốc độ số liệu cao trên môi trường mạng phổ biến nhất thế giới là đường dây điện thoại thông thường. Phân biệt các kỹ thuật xDSL dựa vào tốc độ hoặc chế độ truyền dẫn. Có thể là kỹ thuật truyền không đối xứng với đường xuống có tốc độ cao hơn đường lên, điển hình là ADSL và VDSL; truyền đối xứng với tốc độ truyền hai hướng như nhau, điển hình là HDSL và SDSL. Các đặc trưng cơ bản của họ công nghệ xDSL được mô tả trong Bảng 2.1. Kỹ thuật Ý nghĩa Tốc độ dữ liệu Chế độ Ghi chú HDSL High data rate DSL 2.048 Mbps 1.544 Mbps Đối xứng Đối xứng Sử dụng 1-3 đôi sợi Sử dụng 2 đôi sợi SDSL Single pair DSL 768 Kbps Đối xứng Sử dụng một đôi sợi ADSL Asymmetric DSL 1.5 – 8 Mbps 16 – 640 Kbps Down Up Sử dụng một đôi sợi CDSL Consumer DSL Lên tới 1 Mbps 16 – 640 Kpbs Down Up Sử dụng một đôi sợi ISDL ISDN DSL ISDN BRI (2B+D) Đối xứng Sử dụng một đôi sợi VDSL Very high data rate DSL 13 – 55 Mbps 1.5 – 6 Mbps 13 – 55 Mbps Down Up Đối xứng Sử dụng một đôi sợi Bảng 2.1. Các đặc trưng của họ công nghệ xDSL CHƯƠNG 3: CÔNG NGHỆ ADSL ADSL là công nghệ truy nhập không đối xứng hiện đang được nhiều nước tiên tiến trên thế giới áp dụng và đã được triển khai rất hiệu quả ở Việt Nam. ADSL cung cấp tốc độ truyền số liệu không đối xứng giữa đường lên và đường xuống, cụ thể đường xuống có thể đạt tới 8 Mbps và đường lên đạt được 16 – 640 kbps. Ưu điểm nổi bật của ADSL là cho phép khách hàng sử dụng đồng thời trên cùng một đường dây điện thoại cho cả hai dịch vụ: thoại và số liệu. Có được điều này là do công nghệ ADSL truyền tín hiệu thoại tương tự trong miền tần số thấp và truyền số liệu trong miền tần số cao (4.4 KHz – 1.1 MHz). Ðể tách tín hiệu thoại và số liệu, công nghệ ADSL sử dụng các bộ lọc tại hai đầu mạch vòng. Mô hình tham chiếu của hệ thống ADSL Chuẩn ITU G.922.1 đã đưa ra mô hình các khối chức năng của hệ thống ADSL như trên Hình 3.1 Hình 3.1. Mô hình tham chiếu ADSL ATU-C (ADSL Transceiver Unit-Central office end): Khối thu phát ADSL phía mạng. ATU-R (ADSL Transceiver Unit-Remote terminals end): Khối thu phát ADSL phía khách hàng. AN (Access Node): Nút truy nhập. HPF (High Pass Filter) và LPF (Low Pass Filter): Bộ lọc thông cao và bộ lọc thông thấp tương ứng. CPE (Customer Premises Equipment): Thiết bị của khách hàng. Người sử dụng có thể lựa chọn việc sử dụng đồng thời dịch vụ thoại POTS bằng cách thêm Bộ tách (Splitter) R tại phía thuê bao, khi đó tại tổng đài PSTN cần có bộ tách C. Các giao diện trong mô hình tham chiếu: V-C: Giao diện giữa điểm truy nhập và mạng băng thông rộng. U-C: Giao diện giữa đường dây và bộ chia phía tổng đài. U-C2: Giao diện giữa bộ chia và ATU-C. U-R: Giao diện giữa đường dây và bộ chia phía khách hàng. U-R2: Giao diện giữa bộ chia và ATU-R. T-R: Giao diện giữa ATU-R và lớp chuyển mạch (ATM hoặc STM hoặc gói). T/S: Giao diện giữa kết nối cuối mạng ADSL với CPE. Ðể đơn giản, các giao diện U-C và U-R, T-R và T-S được gọi chung là giao diện U và giao diện T. Mạng ADSL Hình 3.2. Mạng ADSL Công nghệ ADSL không chỉ đơn thuần là một cách download nhanh các trang web về máy tính cá nhân ở gia đình mà ADSL là một phần trong kiến trúc mạng tổng thể hỗ trợ mạnh mẽ cho người sử dụng và doanh nghiệp nhờ tất cả các dịch vụ thông tin tốc độ cao. Ở đây dịch vụ thông t in tốc độ cao có nghĩa là thông tin có tốc độ dữ liệu từ 1 đến 2 Mbps trở lên. Hình vẽ 3.3 và 3.4 là cấu trúc thực tế của ADSL tương ứng với trường hợp không có hay có hệ thống DLC. Với danghj đơn giản nhất của kiến trúc này khách hàng cần phải có một bộ modem ADSL. Modem ADSL có một số jack cắm RJ11. Các port khác có thể là các port dành cho 10BASE-T Ethernet để kết nối với máy tính cá nhân hay các hộp giao tiếp TV dùng cho rất nhiều dịch vụ khác nhau. Hình 3.3. Kiến trúc ADSL không có hệ thống DLC Hình 3.4. Kiến trúc G.Lite ADSL Các thành phần thiết yếu của ADSL ADSL là một kiến trúc mạng hoàn chỉnh. Như đã nói ở trên, ADSL không chỉ là một cách truy xuất nhanh các trang web mà ADSL còn là một phương tiện hỗ trợ mạnh mẽ các dịch vụ số liệu tốc độ cao cho người sử dụng ở gia đình cũng như doanh nghiệp nhỏ. Nhưng dịch vụ này được cung cấp dưới một môi trường cạnh tranh và rất phong phú từ lĩnh vực giáo dục cho tới lĩnh vực tài chính. Hình 5 mô tả chi tiết hơn một bộ ADSL Terminal Unit-Remote (ADSL ATU-R). Thiết bị có thể là một hợp giao tiếp TV hay một máy tính cá nhân mà không cần thêm một thiết bị nào nữa. Việc đi dây từ ATU-R đến thiết bị đầu cuối có thể chỉ đơn giản như đi dây 10BASE-T LAN, cũng có thể thể phức tạp như mạng ATM hay mới mẻ như Consumer Electronics Bus sử dụng dây điện lực sẵn có để gói thông tin. Dù sao thì khi sử dụng cho truyền dữ liệu tốc độ cao thì việc đi dây cho dịch vụ thoại vẫn không thay đổi vì đã có các bộ splitter dùng để tách riêng các tín hiệu tương tự. Hình 3.5. Các thành phần thiết yếu của mạng ADSL Ở tổng đài nội hạt dịch vụ thoại tương tự được chuyển sang cho bó chuyển mạch thoại PSTN qua một bộ tách dịch vụ đặt tại tổng đài, còn các tín hiệu ADSL được bộ DSLAM ghép lại. Dĩ nhiên là khác với ISDN ta không phải thực hiện bất cứ một thay đổi nào trên phần mềm chuyển mạch của tổng đài nội hạt khi triển khai dịch vụ ADSL. Hơn nữa ADSL lại làm giảm lưu lượng thoại vốn làm tắc nghẽn các thiết bị chuyển mạch, truyền dẫn thoại do các dịch vụ dữ liệu gây ra. Nhưng các dịch vụ được công nghệ ADSL đem lại có thể đặt tại tổng đài nội hạt hoặc một nơi khác. Các dịch vụ này có thể do chính tổng đài nội hạt thực hiện hay do các nhà cung cấp dịch vụ tư nhân có giấy phép. Các dịch vụ như vậy bao gồm truy xuất internet, cung cấp các tài liệu đào tạo, giáo dục, video, thương mại, và cả thông tin chính phủ. Lưu ý rằng các đường liên kết ADSL vẫn phải sử dụng các bộ DACS (Digital Acces and Cross connect) để gom lưu lượng đến đưa đến các nhà cung cấp dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ này cũng là nhà cung cấp các đường liên kết ADSL (ADSL link) nên tất cả các dịch vụ có thể đặt trực tiếp tại tổng đài nội hạt nhưng trê thực tế có 2 cách để thực hiện việc cung cấp các dịch vụ này. Theo cách thứ nhất thì các đường liên kết ADSL được tập trung tại DSLAM và chuyển sang cho thiết bị DACS. DACS đưa đến hệ thống truyền dẫn tốc độ cao như đường truyền T3 không phân kênh đến các nhà cung cấp dịch vụ internet. Tất cả các liên kết đều được kết thúc tại bộ định tuyến internet và các gói dữ liệu được chuyển vận 2 chiều nhanh chóng với internet. Các mạng internet cộng tác cũng có cấu hình tương tự. Đây là phương pháp đơn giản nhất. Tuy nhiên, tốc độ tổng cộng của các liên kết ADSL theo phương pháp này không được quá 45 Mbps theo mọi chiều. Phương pháp thứ 2 là điểm truy xuất (access node) được liên kết trực tiếp tới một bộ định tuyến IP hay bộ chuyển mạch ATM đặt gần điểm truy xuất. Ở phương pháp này, vẫn sử dụng việc tập trung lưu lượng vào một đường truyền vật lý từ điểm truy xuất tới bộ định tuyến IP hay bộ chuyển mạch ATM. Điểm truy xuất là một tiêu điểm gây nhiều chuys trong việc tiêu chuẩn hóa ADSL. Hiện nay hầu hết các điểm truy xuất ADSL đều chỉ thực hiện việc ghép lưu lượng đơn giản. Điều này có nghĩa là tất cả các bit dữ liệu và gói dữ liệu vào ra điểm truy xuất đều được truyền tải bằng các mạch đơn giản. Chẳng hạn, trong trường hợp tương đối điển hình nếu có 10 khách hàng ADSL nhận dữ liệu theo chiều downstream với tốc độ 2 Mbps và gửi dữ liệu theo chiều upstream với tốc độ 64 Kbps thì liên kết giữa điểm truy xuất và mạng dịch vụ phải có dung lượng tối thiểu là 10 x 2Mbps= 20Mbps cho mỗi chiều để tránh hiện tượng tắc nghẽn hay bị bỏ bớt gói dữ liệu. Mặc dù tốc độ theo chiều xuống là 10 x 64Kbps= 640Kbps nhỏ hơn 20 Mbps rất nhiều nhưng do bản chất truyền dẫn đối xứng của các đường truyền ghép kênh số nên tốc độ 2 chiều phải như nhau. Việc cải tiến các hệ thống ADSL căn bản có thể được là ghép kênh thống kê (statistical multiplexing) ở điểm truy xuất ADSL hay cung cấp cho bộ DSLAM ADSL một vài khả năng chuyển mạch gói trực tiếp. Nếu thực hiện ghép kênh thống kê thì dựa trên bản chất xuất hiện từng cụm cửa số liệu kiểu gói để bố trí các đường liên kết tốc độ thấp hơn vì không phải lúc nào tất cả các khách hàng đều đang gửi gói số liệu. Trường hợp nếu điểm truy xuất ADSL có sẵn bộ định tuyến hay khả năng chuyển mạch ATM thì dung lượng ghép cũng nhỏ hơn. Dù thực hiện cách nào thì dung lượng ghép cũng giảm hơn 20 Mbps. Kỹ thuật truyền dẫn trong ADSL ADSL có thể sử dụng kỹ thuật ghép kênh phân chia theo tần số (FDM - Frequency Division Multiplexing) hoặc kỹ thuật xóa tiếng vọng (EC – Echo Cancelling). Với kỹ thuật ghép kênh phân chia theo tần số, dải tần hướng lên được tách biệt với dải tần hướng xuống bởi một dải bảo vệ (Hình 3.6). Vì vậy tránh được xuyên âm. Hình 3.6. ADSL sử dụng kỹ thuật ghép kênh phân chia theo tần số Với kỹ thuật xoá tiếng vọng, dải tần hướng lên nằm trong dải tần hướng xuống (Hình 3.7). Như vậy, sử dụng kỹ thuật xoá tiếng vọng làm cho hiệu suất băng tần cao hơn nhưng kỹ thuật này gây ra xuyên âm do đó nó đòi hỏi việc xử lý tín hiệu số phức tạp hơn. Hình 3.7. ADSL sử dụng kỹ thuật xóa tiếng vọng Do không bị ảnh huởng tự xuyên âm tại trạm trung tâm (CO – Central Office) nên kỹ thuật FDM cho chất lượng hướng lên tốt hơn nhiều so với kỹ thuật EC, nhưng độ rộng băng tần hướng xuống của kỹ thuật EC lớn hơn so với kỹ thuật FDM nên chất lượng hướng xuống của EC tốt hơn FDM, đặc biệt đối với các đường dây có khoảng cách ngắn. Các phương pháp điều chế Phương pháp điều chế biên độ cầu phương (QAM – Quadrature Amplitude Modulation) QAM là phương thức điều chế sử dụng một sóng sin và một sóng cosin ở cùng một tần số dể truyền tín hiệu. Hai sóng trên duợc truyền dồng thời trên một kênh. Biên độ của hai sóng này (kể cả dấu) được sử dụng dể truyền các bit thông tin. Sau đây là một ví dụ đơn giản về QAM truyền thông tin 4 bit trên một kí hiệu (Hình 3.8). Hình 3.8. Ví dụ về hệ thống QAM truyền 4bit trên 1 kí hiệu Bốn bit tín hiệu truyền được ánh xạ lên 16 điểm trên mặt phẳng pha biên độ thành một chùm điểm. Giá trị x và y của mỗi điểm tương ứng với biên độ của sóng sin và cosin được truyền trên kênh. Cả phía phát và phía thu đều biết truớc phép ánh xạ từ tổ hợp bit thành các điểm. Sau khi các tín hiệu sin và cosin được truyền trên kênh, phía thu khôi phục lại biên độ của mỗi tín hiệu (sử dụng quá trình cân bằng và xử lý tín hiệu). Biên độ của các tín hiệu này được chiếu lên chùm điểm đồng nhất với chùm điểm phía phát. Thông thường, nhiễu và méo tín hiệu trên kênh và trên các thiết bị điện tử làm cho các điểm bị chiếu sai lệch so với vị trí của các điểm trên chùm diểm. Máy thu sẽ lựa chọn điểm nào trên chùm điểm có vị trí gần nhất với điểm vừa thu được. Nếu nhiễu quá lớn thì điểm gần nhất với điểm thu được sẽ khác với vị trí ban đầu của điểm phát, gây ra lỗi. Ví dụ trên được gọi là QAM 16 do chòm điểm có 16 vị trí. Số vị trí tuỳ thuộc số bit trên một kí hiệu, chẳng hạn nếu là 2bit/kí hiệu thì phương pháp điều chế gọi là QAM 4. Hình 3.9 minh họa chùm điểm của QAM 4 trên cùng hệ trục toạ độ với QAM 16. Giả sử năng lượng trung bình của tín hiệu trong hai phương pháp điều chế là như nhau. Lưu ý rằng khoảng cách giữa các điểm ở QAM 4 lớn hơn khoảng cách giữa các điểm của QAM 16. Do đó nếu xét trên cùng một kênh truyền thì nhiễu dễ tác động vào QAM 16 hơn, tức là QAM 16 đòi hỏi tỉ số S/N cao hơn QAM 4 hay khoảng cách truyền của QAM 16 nhỏ hon QAM 4. Tổng quát có thể thấy rõ rằng QAM có bậc càng lớn thì công suất phát đòi hỏi càng lớn và khoảng cách truyền càng nhỏ. Hình 3.9. Chùm điểm QAM 16 và QAM 4 trên cùng hệ trục với cùng mức năng lượng Hình 3.10 là sơ đồ khối của bộ điều chế. Dòng dữ liệu từ người sử dụng đi vào bộ điều chế. Tại dây dữ liệu được chia thành hai nửa, được điều chế thành hai phần trực giao với nhau rồi được tổ hợp thành tín hiệu cầu phương và truyền trên kênh truyền dẫn. Ðiều đó có nghĩa là các tín hiệu cầu phương là tổ hợp của hai tín hiệu xuất phát từ cùng một nguồn nhưng được làm lệch pha nhau 90 độ. Hình 3.10. Sơ đồ bộ điều chế QAM Hình 3.11 là một dạng của bộ giải diều chế QAM, đầu vào của bộ giải diều chế là tín hiệu thu được trên đường truyền và tín hiệu đầu ra được chiếu lên chùm điểm của máy thu. Hình 3.11. Sơ đồ khối bộ giải mã điều chế QAM Phương pháp điều chế CAP (Carrierless Amplitude/Phase Modulation) Phương pháp điều chế pha và biên độ không sử dụng sóng mang này dựa trên phương pháp điều chế QAM. Bộ thu của phương pháp điều chế QAM yêu cầu tín hiệu tới phải có phổ và pha giống như phổ và pha của tín hiệu truyền dẫn. Do các tín hiệu truyền trên đường dây điện thoại thông thường không đảm bảo được yêu cầu này nên bộ diều chế của xDSL phải lắp thêm bộ điều chỉnh thích hợp để bù phần méo tín hiệu truyền dẫn. Ðiều chế CAP không sử dụng kết hợp trục tải trực giao bằng kết hợp sin và cosin. Việc điều chế duợc thực hiện bằng cách sử dụng bộ lọc thông dải 2 nửa dòng dữ liệu. Các bit cùng một lúc mã hoá vào một ký hiệu (symbol) và qua bộ lọc, kết quả đồng pha và lệch pha sẽ biểu diễn bằng đơn vị symbol. Tín hiệu được tổng hợp lại đi qua bộ chuyển dổi A/D, qua bộ lọc thông thấp và tới đường truyền. Ở đầu thu, tín hiệu nhận được qua bộ chuyển đổi A/D, bộ lọc và đến phần xử lý trước khi tới bộ giải mã. Bộ lọc phía đầu thu và bộ phận xử lý là một phần của việc cân bằng, diều chỉnh. Phương pháp điều chế đa tần rời rạc (DMT – Discrete Multi-Tone Modulation) Ðiều chế DMT là kỹ thuật điều chế đa sóng mang. DMT chia phổ tần số thành các kênh 4 KHz. Các bit trong mỗi kênh duợc điều chế bằng kỹ thuật QAM và đặt trong các sóng mang. Trong hệ thống ADSL, băng tần từ trạm trung tâm xuống thuê bao được chia thành 256 kênh và băng tần từ thuê bao lên trạm trung tâm được chia thành 32 kênh, mỗi kênh có thể mang một số luợng bit khác nhau phụ thuộc vào chất lượng của từng kênh. Hình 3.12 mô tả một sơ đồ điều chế DMT đơn giản. Hình 3.12. Sơ đồ điều chế DTM đơn giản Phương pháp điều chế DMT có nhiều ưu điểm nổi bật. Như ta dã biết, mạng cáp điện thoại có chất lượng và chiều dài dây khác nhau, tín hiệu truyền trên mạng cáp này chịu ảnh hưởng của các loại nhiễu như xuyên âm, tín hiệu radio AM,… DMT khắc phục vấn đề này bằng cách sử dụng các phần phổ có suy hao và nhiễu nhỏ. DMT thực hiện việc kiểm tra đường dây để xác định xem dải tần số nào có thể sử dụng và bao nhiêu bit có thể truyền trong mỗi kênh. Kênh có tỷ số tín hiệu trên tạp âm (S/N) lớn truyền được nhiều bit hơn các kênh có S/N nhỏ. Ðối với kênh tốt (S/N lớn), DMT thực hiện tăng số điểm trong chùm điểm. Ghép kênh Chuỗi bit trong các khung ADSL có thể chia tối đa thành bảy kênh tải tin tại cùng một thời điểm. Các kênh này duợc chia thành hai lớp chính: đơn huớng và song hướng. Chú ý rằng, các kênh tải tin này là các kênh logic và chuỗi bit từ tất cả các kênh cùng được truyền đồng thời trên đường truyền ADSL mà không phải sử dụng băng tần riêng. Bất kỳ kênh tải nào cũng có thể được lập trình để mang tốc độ là bội số của tốc độ 32 kbps (Bảng 3.1). Ðối với những tốc độ không phải là bội số của 32 kbps thì phải sử dụng đến các bit phụ trong phần mào đầu của khung ADSL. Kênh mang Hệ số nhân tối đa Tốc độ cao nhất hỗ trợ (Kbps) AS0 192 6144 AS1 144 4608 AS2 96 3072 AS3 48 1536 LS0 20 640 LS1 20 640 LS2 20 640 Bảng 3.1. Tốc độ kênh mang Truyền tải đơn hướng từ trạm trung tâm tới khách hàng: ADSL cho phép tạo tối đa bốn kênh tải tin từ trạm trung tâm tới khách hàng. Bốn kênh tải tin này chỉ có nhiệm vụ mang chuỗi bit tới khách hàng và được ký hiệu từ AS0 tới AS3. Các kênh này thiết lập trên cơ sở bội số của kênh tốc độ 1,536 Mbps để truyền tốc độ cơ bản T1 (Bảng 3.2). Kênh con Tốc độ kênh con Giá trị của nx AS0 n0 x 1,536 Mbps n0= 0, 1, 2, 3, hoặc 4 AS1 n1 x 1,536 Mbps n1= 0, 1, 2, hoặc 3 AS2 n2 x 1,536 Mbps n2= 0, 1, hoặc 2 AS3 n3 x 1,536 Mbps n3= 0 hoặc 1 Bảng 3.2. Các giới hạn trên của tốc độ tải tin Số kênh con lớn nhất có thể hoạt động tại bất cứ thời điểm nào và số lượng tối đa kênh tải tin có thể truyền đồng thời trong hệ thống ADSL tuỳ thuộc vào lớp truyền tải. ADSL đưa ra 4 lớp truyền tải (Bảng 3.3) được dánh số từ 1