Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng sành sứ thủy tinh tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thủy tinh Việt Nam –Chi nhánh Hà Nội

Trên bước đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Góp phần không nhỏ vào những thành công đó, ngoại thương Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí của mình. Nếu như da giầy, may mặc, dầu thô, thuỷ sản. hiện là những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn thì hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam lại là ngành còn rất nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Cũng như các loại hàng thủ công mỹ nghệ khác, sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là mặt hàng sản xuất truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc. Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là dễ dàng hạ giá thành bởi nguồn nguyên liệu sẵn có, chi phí lao động rẻ, giá trị trực thu ngoại tệ cao( 95%-97%), chi phí đầu tư thấp. Xét tới những lợi ích như trên, nếu như được quan tâm đúng mức trong tương lai gần, hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam sẽ trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Với mục đích vận dụng những lý thuyết đã học để phân tích vấn đề kinh tế cụ thể đồng thời nâng cao kiến thức thực tế, em xin chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng sành sứ thủy tinh tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam – chi nhánh Hà Nội”. Nội dung của bản thu hoạch gồm 3 phần: Chương I: Khái quát về mặt hàng sành sứ thuỷ tinh Chương II: Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2002 tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam – chi nhánh Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2020.

doc31 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3008 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng sành sứ thủy tinh tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thủy tinh Việt Nam –Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Trên bước đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Góp phần không nhỏ vào những thành công đó, ngoại thương Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí của mình. Nếu như da giầy, may mặc, dầu thô, thuỷ sản... hiện là những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn thì hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam lại là ngành còn rất nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Cũng như các loại hàng thủ công mỹ nghệ khác, sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là mặt hàng sản xuất truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc. Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là dễ dàng hạ giá thành bởi nguồn nguyên liệu sẵn có, chi phí lao động rẻ, giá trị trực thu ngoại tệ cao( 95%-97%), chi phí đầu tư thấp. Xét tới những lợi ích như trên, nếu như được quan tâm đúng mức trong tương lai gần, hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam sẽ trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Với mục đích vận dụng những lý thuyết đã học để phân tích vấn đề kinh tế cụ thể đồng thời nâng cao kiến thức thực tế, em xin chọn đề tài “ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng sành sứ thủy tinh tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam – chi nhánh Hà Nội”. Nội dung của bản thu hoạch gồm 3 phần: Chương I: Khái quát về mặt hàng sành sứ thuỷ tinh Chương II: Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2002 tại công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam – chi nhánh Hà Nội. Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng sành sứ thuỷ tinh của Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2020. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung phân tích thực trạng xuất khẩu của hàng sành sứ thuỷ tinh và kiến nghị một số giải pháp cơ bản. Với kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn học sinh, sinh viên. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn của minh đối với TS. Nguyễn Như Tiến – giảng viên khoa Kinh tế Ngoại thương – trường Đại học Ngoại thương và các cán bộ của Công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam đã hết lòng giúp đỡ để em hoàn thành bản thu hoạch cuối khoá này. Hà Nội, ngày tháng năm 2002 Người thực hiện Ngô Hải Vân CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ HÀNG SÀNH SỨ THUỶ TINH I/ KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM HÀNG SÀNH SỨ THUỶ TINH: 1. Khái niệm Danh từ gốm sứ dùng để chỉ những sản phẩm mà nguyên liệu sản xuất chúng gồm một phần hoặc tất cả là cao lanh và đất sét, hay còn được gọi chung là vật liệu silicát. Thí dụ: các đồ đất nung, gạch ngói, chum vại, đồ gốm sứ... Ngày nay, danh từ gốm sứ dịch từ chữ ceramic được mở rộng hơn nhiều. Ngoài các vật liệu silicat con có các sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu không thuộc silicat như titanat, pherit, cermet... 2. Đặc điểm Gốm sứ là những sản phẩm được tạo hình từ nguyên liệu dạng bột khi nung ở nhiệt độ cao, chúng kết khối rắn chắc lại như đá và có nhiều tính chất quý giá như cường độ cơ học cao, bền nhiệt, bền điện, bền hoá... Một số loại gốm kỹ thuật còn có các tính chất đặc biệt như tính áp điện, tính bán dẫn hoặc có độ cứng đặc biệt. Với các tính chất quý giá như vậy, sản phẩm gốm sứ được sử dụng hầu khắp trong các lĩnh vực từ dân dụng cho đến các ngành công nghiệp hiện đại bao gồm: kỹ thuật điện và điện tử, vô tuyến điện tử, thông tin liên lạc, tự động hoá... 3.Phân loại Có nhiều cách phân loại sản phẩm gốm sứ, mỗi cách dựa trên một cơ sở khác nhau: Theo cấu trúc và tính chất sản phẩm có: gốm thô, gốm mịn, gốm đặc biệt. Theo lĩnh vực sử dụng, phân loại như sau: Gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ gồm các sản phẩm gốm sứ sử dụng trong gia đình( ấm, chén, bát, đĩa...), gốm sứ trang trí( chậu hoa, lọ hoa, gốm trang trí...). Những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất tại công ty sứ Hải Dương, Thái Bình, Đồng Nai, Bình Dương, các làng nghề Bát Tràng, Quảng Ninh... Sứ kỹ thuật gồm các sản phẩm sứ cách điện, sứ cho phòng thí nghiệm, được sản xuất chủ yếu tại công ty sứ kỹ thuật Hoàng Liên Sơn, công ty sứ Hải Dương, công ty sứ kỹ thuật Minh Long 2( Bình Dương) và xí nghiệp sứ thuỷ tinh cách điện Bắc Ninh. Gốm sứ xây dựng gồm các sản phẩm gạch ngói dùng trong xây dựng, gạch ceramic lát nền, ốp tường, gạch granit, ngói tráng men, sứ vệ sinh...Các công ty, nhà máy sản xuất chính là Tổng công ty sành sứ thuỷ tinh Việt Nam(VINACEGLASS),Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng (VIGLACERA), công ty gạch ốp lát Thái Bình, Hải Dương, Quảng Bình, Huế, Đồng Tâm... 4.Quy trình sản xuất: Nguyên liệu và phối liệu: Nguyên liệu dùng trong sản xuất gốm sứ gốm hai loại chính: nguyên liệu dẻo( cao lanh, đất sét) và nguyên liệu gầy(trường thạch, thạch anh, Đôlômit, đá vôi, hoạt thạch). Gia công và chế biến phối liệu: Đây là quá trình chọn lựa sơ bộ, loại bỏ tạp chất, phân loại nguyên liệu. Sau đó tiến hành nghiền nguyên liệu bằng máy đập hàm và máy nghiền hai bánh đá. Quá trình gia công và chế biến phối liệu là một bộ phận rất quan trọng trong nghề gốm sứ. Quá trình này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và quyết định sự hoạt động của các khâu tiếp sau như tạo hình, nung sản phẩm. Tạo hình sản phẩm: Trong công nghệ sản xuất gốm sứ, tạo hình là khâu rất quan trọng. Nó không những ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mà còn quyết định tới các thông số hình học của sản phẩm. Tỷ lệ phế phẩm ở khâu tạo thành khá cao, do đó phải đặc biết chú trọng. Phương pháp đổ rót và phương pháp dẻo là hai phương pháp tạo hình chủ yếu trong sản xuất gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ. Phương pháp đổ rót dùng để tạo hình những sản phẩm có hình dáng phức tạp hay có độ dày mỏng khác nhau mà các phương pháp khác không đáp ứng được. Có loại sản phẩm do hình dáng phức tạp, khuôn phải chia ra thành nhiều mảng để tháo khuôn dễ dàng. Có loại sản phẩm phải tạo hình các chi tiết riêng biệt rồi gắn chắp lại thành sản phẩm hoàn chỉnh như các loại ấm trà, các loại tượng phức tạp. Phương pháp tạo hình dẻo chính là phương pháp vuốt tay trên bàn xoay( bình, lọ hoa...) hoặc gắn ráp trong khuôn thạch cao( chum, vại...) hay ép dẻo trên máy nén cơ khí hoặc thuỷ lực( gạch, ngói...). Sấy Nhằm đảm bảo sản phẩm có cường độ cao, tránh được nứt vỡ khi tráng men, vẽ trang trí và khi nung, người ta tiến hành sấy sản phẩm. Phương pháp sấy tự nhiên là phương pháp phơi nắng, chi phí thấp và không đòi hỏi kỹ thuật cao nhưng lại phụ thuộc vào thời tiết và tốn diện tích. Phương pháp sấy trong phòng, buồng đốt ở phía ngoài cho năng suất cao nhưng tiêu tốn nhiều năng lượng và chi phí. Kinh nghiệm thực tế cho thấy chi phí cho quá trình sấy chiếm tỷ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm. Đối với sản phẩm có kích thước lớn, hình dạng phức tạp, khâu sấy có vai trò rất quan trọng, nếu xảy ra sai sót ở khâu này có thể dẫn đến hư hỏng toàn bộ sản phẩm ở khâu nung. Vẽ trang trí: Sau khi sản phẩm được tạo hình và sấy khô thì chuyển sang công đoạn vẽ trang trí. Khâu này đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ trong thao tác và sự chính xác trong pha màu. Tráng men: Việc tráng men nhằm đảm bảo về mặt thẩm mĩ, vệ sinh và tăng độ bền cho sản phẩm. Các phương pháp chủ yếu bao gồm: nhúng men, dội men, phun men, quét men. Nung Các loại nhiên liệu nung gốm có : ánh sáng tự nhiên, củi, than đá, than cám, nhiên liệu lỏng( dầu hoả...) nhiên liệu khí( khí thiên nhiên: mêtan, khí nhân tạo, khí gaz hoá lỏng...) Lò nung chủ yếu thường dùng là nung tuy nen. Sản phẩm được xếp trên xe goòng bằng bao nung hoặc tấm nung có các trụ đỡ và được đẩy vào lò bằng máy đẩy thuỷ lực. Đóng gói: Việc lựa chọn bao bì đóng gói sản phẩm là khâu quan trọng. Xuất phát từ tính chất hàng hoá, chúng ta cần lựa chọn bao bì vận chuyển thích hợp nhằm phòng chống va đập và bao bì bán lẻ ấn tượng hấp dẫn người tiêu dùng. Đối với hàng hoá xuất khẩu thì bao bì không chỉ có tác dụng bảo vệ mà còn có tác dụng quảng cáo cho sản phẩm. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, hàng hoá không chỉ cạnh tranh về chất lượng mà còn cả hình thức bao gói bên ngoài. Thực tế cho thấy người tiêu dùng khi lựa chọn hàng hoá thì trước tiên đều lựa chọn hàng hoá có bao bi đẹp, hấp dẫn ngay cả khi chất lượng không được tốt cho lắm. Trong thời kỳ trước, chúng ta hầu như không chú trọng đến vấn đề bao bì bán lẻ cho hàng sành sứ thuỷ tinh. Nguyên nhân là do nhà sản xuất thiếu ý thức cạnh tranh về bao bì và không muốn tốn nhiều chi phí cho bao bì. Nhiều bạn hàng quốc tế rất ưa chuộng đồ sứ Việt Nam nhưng khi nhìn thấy những đồ sứ cao cấp được bao gói trong những hộp bìa các tông thô sơ thì không muốn đặt hàng nữa. Hiện nay, bao bì cho hàng sành sứ thuỷ tinh đã có những cải tiến rõ rệt. Nhũng mặt hàng sứ cao cấp như ấm, chén, bát, đĩa... được đóng gói trong hộp có xốp cứng đệm lót, bên ngoài gia cố bằng nilông trong suốt để tiện cho khách hàng vừa có thể nhìn thấy hàng hoá bên trong, vừa được hấp dẫn bởi hình thức bên ngoài. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao để hàng hoá có chất lượng tốt, bao bì đẹp mà không đẩy giá thành lên cao. Chúng ta nên thiết kế bao bì nhỏ gọn, ít tốn diện tích để tiết kiệm chi phí bao bì đồng thời phù hợp với việc xếp dỡ vận chuyển. II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN HÀNG SÀNH SỨ THUỶ TINH Sản xuất gốm sứ là một trong những ngành cổ truyền được phát triển rất sớm. Những di vật bằng gốm sứ được phát hiện qua khảo cổ cho thấy rằng Ai Cập cách đây 4000 năm đã làm gốm sứ. Ở Trung Quốc cách đây hàng ngàn năm cũng đã sản xuất gốm sứ, gốm sứ đời Khang Hy rất nổi tiếng là trắng trong, màu sắc đẹp. Ở Việt Nam, thời thượng cổ ông cha ta cũng đã sản xuất được đồ gốm. Các di vật lịch sử bằng gốm của nền văn hoá thời Hùng Vương được phát hiện ở nhiều địa điểm khảo cổ trên cả nước. Điều đó chứng minh thời kỳ này tổ tiên ta đã có nền văn minh khá rực rỡ. Đặc biệt các sản phẩm gốm thời Lý Trần với các hoạ tiết trang trí kiểu hoa văn và nhiều màu sắc, mang tính dân tộc rất độc đáo, men ngọc và men Lý đẹp và quý, được nhiều người ưa thích. Thời kỳ này hàng gốm Việt Nam được xuất sang Nhật Bản và các nước Đông Nam Á. Các cơ sở gốm sứ lâu đời và rất nổi tiếng ở nước ta là Hương Canh, Bát Tràng, Móng Cái, Lái Thiêu, Biên Hoà... là các cơ sở sản xuất gạch ngói, sành sứ dân dụng và mỹ nghệ. Hiện nay, ở trong nước đã có nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất gốm sứ có dây chuyền sản xuất tương đối hoàn chỉnh, hiện đại như công ty sứ Hải Dương, công ty sứ kỹ thuật Hoàng Liên Sơn, công ty sứ Thanh Trì, công ty sứ Minh Long... III/ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG SÀNH SỨ THUỶ TINH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM. 1.Vai trò: Đã từ lâu, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng đã được thị trường quốc tế biết đến. So với các ngành xuất khẩu chủ lực hiện nay là xuất khẩu da giày, dầu thô, thuỷ sản, may mặc... thì xuất khẩu thủ công mỹ nghệ có bề dày lịch sử tương đối lớn. Đã có thời kỳ, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 40%-50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước( trước 1985). Sau này, mặt hàng không được quan tâm chú ý đúng mức nên tụt hậu nhanh chóng về kim ngạch xuất khẩu. Một phần nguyên nhân xuất phát từ việc mất đi thị trường rộng lớn khi Liên Xô( cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ. Nói đến tác dụng của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và sành sứ thuỷ tinh nói riêng, chúng ta không chỉ thấy nguồn ngoại tệ lớn nhờ xuất khẩu mang lại mà còn thấy được tác dụng cân bằng cán cân thương mại( hàng thủ công mỹ nghệ đã có lúc là phương tiện để trả nợ). Không ai có thể phủ nhận vai trò của xuất khẩu sành sứ thuỷ tinh từ trước tới nay. Trong tương lai, sành sứ thuỷ tinh sẽ tìm hướng đi mới, trong môi trường mới nhưng luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện Bộ thương mại đã đề ra kế hoạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ( trong đó bao gồm cả hàng sành sứ thuỷ tinh) đạt kim ngạch từ 900 triệu đến 1 tỷ USD vào năm 2005. Điều đó càng khẳng định vai trò của sành sứ thuỷ tinh Việt Nam ngày một lớn mạnh, vị thế không kém phần quan trọng so với bất cứ ngành hàng xuất khẩu nào. 2. Lợi thế so sánh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam là dễ dàng hạ giá thành bởi nguồn nguyên liệu sẵn có, chi phí lao động rẻ, giá trị trực thu ngoại tệ cao(95% - 97%), chi phí đầu tư thấp. Do đó, tiềm năng và lợi ích từ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng là rất lớn. Thế mạnh của sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh ngày một phát huy trong bối cảnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Dòng vốn đổ về các nước có nguồn nguyên liệu rẻ, giá lao động thấp và lượng nhân công dồi dào. Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định sản xuất hàng sành sứ thuỷ tinh có nhiều lợi thế. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG SÀNH SỨ THUỶ TINH CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 - 2002 TẠI CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU SÀNH SỨ THUỶ TINH VIỆT NAM - CHI NHÁNH HÀ NỘI. GIỚI THIỆU VỀ VINACEGLASS Tên đầy đủ : Tổng công ty sành sứ thuỷ tinh Việt Nam Tên giao dịch tiếng Anh: The VietNam Ceramic & Glass Corp. Tên viết tắt : VINACEGLASS Trụ sở chính : 20-24 Nguyễn Công Trứ, Quận 1, TP Hồ Chí Minh Năm thành lập : 1975 và thành lập lại năm 1990 Công ty xuất nhập khẩu sành sứ thuỷ tinh Việt Nam ( VINACEGLASS IMP – EXP COMPANY) là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng công ty sành sứ thuỷ tinh Việt Nam. Chi nhánh Hà Nội: 18C Phạm Đình Hồ – Hai bà Trưng – Hà Nội Chi nhánh Hưng Yên: Chi nhánh Chí Linh: Đại Bồ, Hoàng Tân, Chí Linh, Hải Dương Chi nhánh Đồng An: Đường số 2, Khu công nghiệp Đồng An Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh Hà Nội: đại diện Tổng công ty thực hiện các hoạt động: Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm: đồ gốm, đồ sứ, chậu hoa cây cảnh, cốc chén thuỷ tinh, đồ sư trang trí nội ngoại thất... Nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất gốm sứ thuỷ tinh, gạch lát, sứ vệ sinh... Ngoài ra, công ty hiện đang là đại lý, nhà phân phối các loại nguyên vật liệu cho các công ty nước ngoài như Johnson Mathey Ceramic – Anh, Zshimmer & Schwars - Đức, Commercial Mineral Limited – Australia, Lafrarge Prestia Co.,Ltd, Mineral resource development co. Ltd, ... Tóm lại, các sản phẩm kinh doanh chủ yếu của công ty gồm có: gốm sứ dân dụng và mỹ nghệ gốm các sản phẩm gốm sứ sử dụng trong gia đình( ấm, chén, bát, đĩa...), gốm sứ trang trí( chậu hoa, lọ hoa, gốm trang trí...). Đây là những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty. Gốm sứ xây dựng gồm các sản phẩm gạch gói dùng trong xây dựng, gach ceramic lát nền, ốp tường, gạch granit, ngói tráng men, sứ vệ sinh... chủ yếu cung cấp cho thị trường nội địa. Các loại nguyên vật liệu phục vụ sản xuất gốm sứ xây dựng cũng là mặt hàng kinh doanh chủ yếu cuả công ty. Trong phạm vị nghiên cứu của đề tài này, em xin đi sâu phân tích về thực trạng xuất khẩu để thấy được đóng góp của xuất khẩu đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đồng thời nhận thức được vai trò ngày một lớn mạnh của mặt hàng này đối với toàn ngành cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. THỰC TRẠNG Tỷ trọng và cơ cấu kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh 6 tháng đầu năm 2002. STT  MẶT HÀNG  MÃ SỐ  SỐ LƯỢNG ( CÁI/ BỘ)  GIÁ TRỊ( USD)   1  Đồ gốm  VN 812/ 004  7133  4648,20   2  -  VN 813/ 004  10818  12833,86   3  -  VN 814/004  4960  12878,20   4  -  VN 827/ 004  4716  9813,6   5  -  VN 828/004  14146  14244,18   6  Chậu cảnh ( có men )  VN 637/012  6024  12778,02   7  -  VN 219/012  11112  11587,62   8  -  VN 792/ 002  6396  12402,44   9  -  VN 790/ 002  736  4294,10   10  -  VN 222/ 012  11638  13089,92   11  -  VN 801/ 012  1827  9441,59   12  Chậu hoa  VN 509/ 012  1324  11842,5   13  -  VN 423/ 018  1387  12125,68   14  -  VN 785/ 005  4640  14215,68   15  -  VN 787/ 005  4278  14697,78   16  -  VN 514/ 012  43888  27716,80   17  Đồ trang trí để bàn  VN 614/001  4252  14438,20   18  -  VN 613/ 001  5128  14129,20   19  -  VN 609/ 020  8403  13002,63   20  -  VN 608/ 020  7204  11956,67   21  -  VN 607/ 020  5679  14684,34   22  Cốc chén thuỷ tinh  VNG 114/ 028  5554  11602,66   23  -  VNG 115/ 028  5088  14922,84   24  -  VNG 116/ 028  4308  11136,40   25  -  VNG 117/ 028  6058  11898,16   26  Hàng TCMN khác  VN 773/ 002  7141  11288,92   27  -  VN 775/ 002  2822  763,58   28  -  VN 805/ 002  1819  6241,05   29  -  VN 743/ 025  1420  7909,5   30  -  VN 794/ 002  13640  25000,0   31  -  VN 771/ 002  1445  5886,29   32  -  VN 770/ 002  1510  10748,05   2. Cơ cấu thị trường xuất khẩu các mặt hàng sành sứ thuỷ tinh trong vòng 10 năm trở lại đây Nước  Năm 1999  Năm 2000  Năm 2001    G.trị (USD)  Tỷ trọng(%)  G.trị (USD)  Tỷ trọng(%)  G.trị (USD)  Tỷ trọng(%)   Pháp  1.297.413  68  539.321  35,9  172.958  20,9   Hồng Kông  66.008  3,6  205.877  13,7  114.695  13,9   Nhật Bản  42.908  2,4  283.124  18,8  114.139  13,8   Đức  115.292  6  96.930  6,5  120.523  14,6   Nước khác  381.453  20  377.124  25,1  305.026  36,9   ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU SÀNH SỨ THUỶ TINH Những thành tựu đạt được Nhìn chung, tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng và hàng sành sứ thuỷ tinh nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Những thành tựu này đạt được trong một bối cảnh có rất nhiều khó khăn: Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu giảm nghiêm trọng, đối thủ cạnh tranh lớn nhất là Trung Quốc đã gia nhập WTO... Theo thống kê từ Bộ thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2001 đạt 235 triệu USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2002, mặc dù tình hình xuất khẩu chung suy giảm nhưng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ vẫn đạt mức tăng trưởng cao. 7 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu đạt 191 triệu USD. Nhờ tận dụng làng nghề truyền thống, công nhân lành nghề, giá nhân công rẻ mạt, một số nguyên liệu trong nước chất lượng ổn định, giá thành hợp lý có thể dùng thay thế nguyên liệu nhập khẩu, sành sứ thuỷ tinh Việt Nam đã từng bước xây dựng được lòng tin với khách hàng trong và ngoài nước về chất lượng. Hơn nữa, chúng ta đã không ngừng mở rộng thị trường: bên cạnh các khách hàng thường xuyên( Hà Lan, Bỉ...) công ty còn chú trọng xây dựng quan hệ với khách hàng mới( tập đoàn ATR- Thuỵ Điển). Những tồn tại và nguyên nhân Mặc dù hàng sành sứ thuỷ tinh Việt Nam đã thâm nhập thị trường thế giới nhưng số lượng còn khiêm tốn, mẫu mã chưa phong phú, đa dạng, giá cả cao hơn so với các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Trước năm 1985, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta chiếm 40% - 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, mặc dù về mặt giá trị đã tăng nhiều nhưng tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt chưa đầy 1%. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về tỷ trọng trên xuất phát từ nhiều phía: a.Về vốn: Đối với mỗi một doanh nghiệp thì vấn đề vốn luôn luôn là vấn đề bức xúc. Tình trạng chung thường thấy là thiếu vốn cho nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Các nguyên liệu đầu vào chủ yếu như cao lanh, men màu đòi hỏi chất lượng tốt thì hầu hết phải nhập khẩu từ bên ngoài. Hiện nay chúng ta đang tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước thay thế, để tìm cách hạ giá thành mà chất lượng không đổi, từ đó giảm dần sự phụ thuộc vào bên ngoài. Một nguyên nhân khác khiến vấn đề thiếu vốn càng trở nên trầm trọng là yêu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị và chi đầu tư nghiên cứu khoa học. Để giao hàng với số lượng lớn thì không thể dựa trên làng nghề. Trình độ sản xuất thủ công, năng lực lao động thấp mà không đồng đều về chất lượng. Nhu cầu trang bị dây chuyền máy móc kỹ thuật tiên tiến là cần thiết nhưng đồng thời cũng đặt ra cho công ty nhiều khó khăn đáng kể. b.Về cơ
Luận văn liên quan