Bắc Ninh là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề trong cả nước, các làng nghề đang có xu hướng phát triển trên cơ sở khôi phục nghề truyền thống đồng thời mở rộng thêm nhiều nghề mới. Từ đó xuất hiện nhu cầu về vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh tạo ra một thị trường tín dụng giàu tiềm năng đối với các ngân hàng thương mại trên địa bàn.
Chi nhánh NHNH&PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua đã đầu tư tín dụng trong nông nghiệp, công nghiệp, đạt nhiều thành tích, đóng góp tích cực trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện nhà. Tuy nhiên việc đầu tư vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn vào các làng nghề còn ở mức cầm chừng, phân tán làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển của làng nghề về cả quy mô và chất lượng. Do vậy phải tìm các giải pháp nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn để khôi phục và phát triển các làng nghề, đồng thời tạo lợi thế cho NH chiếm lĩnh thị trường nông thôn, mở rộng đầu tư.
Ngoài phần mở đầu và phần kêt luận khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về Mở rộng cho vay phát triển làng nghề của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng cho vay đối với làng nghề tại chi nhánh NHNN&PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh NHNN&PTNN huyện Gia Bình
86 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3029 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề đối với chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Gia Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Ninh là một trong những tỉnh có nhiều làng nghề trong cả nước, các làng nghề đang có xu hướng phát triển trên cơ sở khôi phục nghề truyền thống đồng thời mở rộng thêm nhiều nghề mới. Từ đó xuất hiện nhu cầu về vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh tạo ra một thị trường tín dụng giàu tiềm năng đối với các ngân hàng thương mại trên địa bàn.
Chi nhánh NHNH&PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua đã đầu tư tín dụng trong nông nghiệp, công nghiệp, đạt nhiều thành tích, đóng góp tích cực trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện nhà. Tuy nhiên việc đầu tư vốn của các tổ chức tín dụng trên địa bàn vào các làng nghề còn ở mức cầm chừng, phân tán làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển của làng nghề về cả quy mô và chất lượng. Do vậy phải tìm các giải pháp nghiên cứu nhằm mở rộng cho vay có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn để khôi phục và phát triển các làng nghề, đồng thời tạo lợi thế cho NH chiếm lĩnh thị trường nông thôn, mở rộng đầu tư. Nhận thấy vấn đề đó nên trong một thời gian thực tập tại phòng tín dụng của chi nhánh NHNN&PTNT huyện Gia Bình em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề đối với chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Gia Bình ” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng, về làng nghề, mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại tỉnh Bắc Ninh. Phân tích đánh giá thực trạng tín dụng trong các làng nghề, những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng ngân hàng đối với làng nghề của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Đề xuất hệ thống giải pháp để mở rộng cho vay phát triển làng nghề của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan hệ tín dụng ngân hàng của các TCTD trên địa bàn đối với làng nghề.
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng cho vay để phát triển làng nghề tại NHNo & PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh từ năm 2007 đến năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, suy luận logic kết hợp với phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê…
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kêt luận khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về Mở rộng cho vay phát triển làng nghề của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng cho vay đối với làng nghề tại chi nhánh NHNN&PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh NHNN&PTNN huyện Gia Bình
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG CHO VAY PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ CHO VAY PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Những vấn đề về làng nghề
a. Khái niệm về làng nghề
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy làng xã có vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất cũng như đời sống dân cư ở nông thôn. Làng xã xuất hiện từ rất lâu, được hình thành dựa trên cơ sở những công xã nông thôn, công xã nông thôn là một tập hợp các gia đình sống quay quần với nhau trong một khu vực địa giới nhất định.
Ban đầu phần lớn các thành viên trong làng đều làm nông nghiệp, sau đó có một bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau hình thành nên một số tổ chức theo nghề nghiệp như: phường gốm, phường dêt…từ đó các nghề được lan truyền rộng ra khắp làng và hình thành nên làng nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề thì đa phần các gia đình trong làng đều vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề. Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các nghề mang tính chuyên môn sâu hơn và thường chỉ giới hạn trong quy mô nhỏ (làng) dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công. Càng về sau xu hướng người lao động tách khỏi đồng ruộng chuyển sang làm nghề thủ công và sống bằng chính nghề đó ngày một tăng. Những làng nghề phát triển mạnh số hộ và số lao động làm nghề tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày càng nhiều.
Như vậy làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra các làng nghề truyền thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hóa văn minh dân tộc. Trải qua thời gian dài của lịch sử, có những nghề vẫn được lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và bên cạnh đó có những nghề mới ra đời.
Đã có rất nhiều những quan điểm khác nhau về làng nghề, nhưng tựu chung lại có khái niệm như sau: “ Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một làng có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độp lập. Thu nhập từ các làng nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng”.
Căn cứ để xác định một làng nghề có phải là làng nghề hay không dựa trên những tiêu thức sau:
+ Số hộ và số lao động làm nghề ở làng đạt từ 50% trở nên so với tổng số hộ và số lao động của làng.
+ Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề ở làng nghề đạt trên 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
+ Những sản phẩm mà làng nghề làm ra phải mang tính đặc thù của làng.
+ Có hình thức tổ chức phù hợp chịu sự quản lý của Nhà nước, của chính quyền địa phương gắn với mục tiêu kinh tế xã hội và làng văn hóa của địa phương. Tên của làng nghề phải được sắn với tên làng: nếu là làng có một nghề thì lấy nghề đó đặt tên cho làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nào nổi tiếng nhất thì lấy nghề đó đặt tên làng, ví dụ như làng Giấy Đống Cao (Yên Phong Bắc Ninh), làng Tranh Đông Hồ (Thuận Thành Bắc Ninh)….
Người ta có thể chia làng nghề thành các loại: làng một nghề và làng nhiều nghề. Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Cũng có thể chia : làng nghề truyền thống và làng nghề mới.Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tại hàng trăm, hàng nghìn năm. Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự xuất hiện lan tỏa của các làng nghề trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
b. Đặc điểm của làng nghề
Một là, đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó với nông nghiệp.
Các làng nghề xuất hiện và tồn tại trong từng làng, xã ở nông thôn.Các ngành nghề thủ công nghiệp tách dần khỏi nông nghiệp nhưng không rời khỏi nông thôn. Sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân. Các gia đình nông dân vừa làm ruộng vừa làm nghề thủ công nghiệp.Theo cách nói của Mác thì Làng nghề là một đặc điểm đặc trưng của nông thôn Châu Á.
Hai là, Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề thường rất thô sơ, lạc hậu,sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu.
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công,công nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ, kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ.Mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hóa và điện khí hóa từng bước trong công nghệ, kỹ thuật sản xuất ở các làng nghề. Song, cho tới nay cũng chỉ có một số không nhiều nghề có khả năng cơ giới hóa được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.
Ba là, làng nghề phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề.
Về quy mô: đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô nhỏ, bình quân mỗi cơ sở làm nghề chỉ có khoảng vài chục triệu đồng. Làng nghề phát triển với nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ chức của các cơ sở làng nghề cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp nông thôn như: các hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã… Trong những năm gần đây còn xuất hiện những nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm… đã hình thành nên những công ty, doanh nghiệp tư nhân.
Về cơ cấu ngành nghề: đã có sự thay đổi thích ứng với cơ chế thị trường. một số ngành phát triển mạnh như sản xuất vật liệu xây sựng, chế biến nông sản, cơ kim khí… Có thể nói cơ cấu những ngành nghề của làng rất phong phú, ở các địa phương tỷ lệ ngành nghề cũng khác nhau do nhu cầu tiêu thụ và tiêu dùng khác nhau.
Bốn là, về sản phẩm của làng nghề
Sản phẩm làng nghề là những sản phẩm tiểu thủ công nghiệp, đối với các sản phẩm của làng nghề truyền thống thì sản phẩm mang tính đơn chiếc, co tính mỹ thuật cao. Bên cạnh những sản phẩm mang tính truyền thống còn có rất nhiều sản phẩm của những làng nghề mới làm cho các sản phẩm của các làng nghề ngày cang đa dạng, phong phú với nhiều chủng loại. Nhờ bám sát nhu cầu thị trường mà các mặt hàng của làng nghề tăng lên nhanh chóng, chất lượng được nâng cao đáp ứng nhu cầu trường.
Năm là, làng nghề có khẳ năng giải quyết tốt việc làm cho người lao động.
Một đặc điểm nổi bật về lao động ở các làng nghề là lao động chủ yếu trong các hộ gia đình chiếm tới 90%, chỉ còn khoảng 10% nằm ở các doanh nghiêp. Nếu như trước đây lao động trong các làng nghề chủ yếu là thủ công thì ngày nay do có sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các làng nghề đã ứng dụng ngày càng nhiều các công nghệ mới vào sản xuât làm cho năng suất lao động tăng cao.
Lao động trong các làng nghề truyền thống có trình độ kỹ thuật cao, tay nghề giỏi, mang tính kỹ thuật độc đáo. Bên cạnh những lao động có tay nghề cao ở các làng nghề truyền thống thì đại đa số trình độ lao độngở các làng nghề là thấp. Các chủ hộ, chủ cơ sở thường chưa qua trường lớp đào tạo nào nên trình độ quản lý yếu kem, họ thường quản lý theo kinh nghiệm, kinh doanh theo kiểu chộp giật, điều đó chỉ đem lại lợi ích trước mắt không đem lại hiệu quả lâu dài.
Sáu là, đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ.
Hầu hết các làng nghề được hình thành xuất phát từ có sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương.Một số ngành nghề còn có thể tận dụng cả những phế liệu, phế phẩm, phế thải trong công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để làm nguyên liệu sản xuất, nên chúng càng sẵn có trên địa bàn.Tậm chí đối với một số mặt hang thủ công mỹ nghệ, sơn mài, chạm khắc gỗ, đá, vàng bạc…cũng có thể khai thác một số nguyên liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài như thuốc nhuộm…nhưng không nhiều.
Bảy là, về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề.
Khi mới hình thành hình thức tổ chức kinh doanh của làng nghề là hộ gia đình, hình thức này vẫn được duy trì cho tới ngày nay và chiếm tỷ trọng lớn. Bên cạnh đó cũng tồn tại các hình thức hợp tác xã. doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiện hữu hạn. Tuy các hình thức này mới chỉ chiếm số it những đã cho thấy sự phát triển của làng nghề ở trình độ phát triển cao hơn.
Tám là, thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa phương, tại chỗ, nhỏ hẹp.
Sự ra đời của các làng nghề xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hang tiêu dung tại chỗ của địa phương.Ở mỗi làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ dung làm nơi trao đổi,buôn bán,tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề.Cho đến nay thị trường làng nghề cơ bản vẫn là thị trường địa phương la tỉnh hay liên tỉnh.Thói quen chỉ thích hàng tiểu thủ công nghiệp(TTCN) ở một vùng nhất định,theo một mùa vụ nhất định đã hạn chế sức tiêu thụ sản phẩm ở nông thôn.làng nghề thủ công nghiệp trong một thời gian dài đã phát triển theo một lối mòn là đáp ứng thị hiếu thuộc phạm vi nhỏ hẹp.yếu tố cạnh tranh hầu như không có.Vì vậy khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường,cac làng nghề đứng trước những khó khăn không nhỏ và nhiều làng nghề đã lâm vào tình trạng điêu đứng.Tuy nhiên các sản phẩm thuộc hàng thủ công mỹ nghệ có thị trường tiêu thụ phong phú,đa dạng và rộng lớn hơn.
c. Vai trò của làng nghề trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn được coi là chiến lược quan trọng của nước ta, để đạt được mục tiêu đó thì trước hết cần đẩy mạnh việc khai thác các tiềm năng sẵn có nhằm xóa dần tình trạng độc canh cây lúa, tạo việc làm cho người lao động dư thừa ở nông thôn. Để góp phần giải quyết vấn đề trên thì việc khôi phục và phát triển các làng nghề ở nông thôn là một hướng đem lại hiệu quả cao, điều đó được thể hiện thông qua vai trò quan trọng của việc phát triển các làng nghề. Cụ thể:
Phát triển làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn, đây là vấn đề quan trọng của chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các làng nghề đang ngày càng thu hút nhiều lao động không chỉ lao động ở địa phương mà còn cả lao động ở các địa phương khác. Đồng thời, phát triển làng nghề còn kéo theo các dịch vụ khác phát triển tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. việc phát triển các làng nghề là giải pháp quan trọng nhằm khai thác tiềm lực ở nông thôn tạo điều kiện cho người lao động có khả năng sản xuất nông nghiệp chuyển hẳn sang làm nghề mà họ có ưu thế ngay tại địa phương, từ đó hạn chế việc di dân ồ ạt ra thành phố.
Các làng nghề đã tạo ra một khối lượng hàng hóa lớn đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa mở rộng thị trường. Cũng qua đó các nguồn lực của địa phương được khai thác sử dụng như tài nguyên đất, nguyên liệu, lao động… vào quá trình sản xuất kinh doanh, khai thác có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh, tay nghề của người lao động. Hiện nay ngày càng nhiều các mặt hàng của các làng nghề được xuất khẩu như dệt, mây tre đan, điêu khắc, đồ gốm…, những sản phẩm này ngày càng được thị trường nước ngoài ưa thích.
Phát triển làng nghề góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn. Qua thực tế cho thấy thu nhập bình quân một người lao động làm nghề bao giờ cũng cao hơn thu nhập bình quân một lao động thuần nông, khoảng 400.000 – 1.000.000 đồng một tháng và còn có thể hơn, thu nhập này không thể có nếu làm nghề nông. Thu nhập tăng, họ có điều kiện mua sắm các tiện nghi cần thiết cho gia đình, đảm bảo sức khỏe cho cuộc sống. Thứ đến là những khoản tiết kiệm nhỏ họ gửi trong NH, tích lũy cho tương lai, tạo đà tăng trưởng kinh tế toàn diện.
Làng nghề là nơi đào tạo những lao động có tay nghề cao, có khả năng thích ứng với lĩnh vực công nghiệp, tạo cơ sở cho doanh nghiệp hiện đại ra đời, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Cơ sở hạ tầng nông thôn như đường xá, cầu cống sẽ được cải thiện hay xây mới tạo thuận lợi cho việc đi lại giao thương giữa các vùng.
Làng nghề là nơi thu hút vốn nhàn rỗi: Quy mô các cơ sở kinh tế trong làng nghề chủ yếu là hộ gia đình và đang dần hình thành một số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời hầu hết các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề đều dành một phần diện tích nhà ở của gia đình làm nơi sản xuất kinh doanh.Cho nên, suất đầu tư cho một lao động và quy mô vốn cho một cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề không nhiều. Bình quân mỗi một suất đầu tư vốn cho một lao động chỉ khoảng trên dưới hai triệu đồng và quy mô vốn bình quân cho mỗi hộ sản xuất kinh doanh chỉ khoảng vài ba chục triệu đồng.Nó cho phép các làng nghề sẽ huy động hết thảy mọi loại vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư ở trong từng làng xã để đưa vào sản xuất,kinh doanh.
Bên cạnh đó, ở các làng nghề cũng có sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở sản xuất. Các doanh nghiệp có thể mua lại sản phẩm hay cung ứng nguyên liệu cho làng nghề hoặc tinh chế, lắp ráp một bộ phận của sản phẩm tạo thành một sản phẩm hoàn chỉnh để bán ra thị trường.
Phát triển làng nghề truyền thống góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2. Hoạt động cho vay đối với sự phát triển kinh tế làng nghề
a. Khái niệm cho vay
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ngân hàng thương mại đã hình thành và tồn tại như một tất yếu khách quan. Trải qua bao nhiêu thăng trầm của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất lượng mà cả về số lượng và loại hình các dịch vụ cũng ngày một mở rộng đáp ứng nhu cầu khách hàng. Nghiệp vụ cho vay là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất của mọi NHTM, là huy động và sử dụng vốn nhằm thu lợi nhuận. Việc huy động vốn chính là quá trình tạo nên các khoản tài sản khác nhau của ngân hàng trong đó cho vay là khoản mục tài sản lớn và quan trọng nhất.
Như vậy: ‘’cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức giao dịch cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận và nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi’’. ( Mục 2- điều 3- 162/2001 QĐ - NHNN.)
Từ định nghĩa trên ta có thể đưa ra các đặc trưng của cho vay phát triển làng nghề như sau:
b. Đặc trưng của cho vay đối với làng nghề
Ngoài những đặc điểm chung như đặc trưng của tín dụng vốn có, nó còn mang những đặc trưng riêng của tín dụng ngân hàng đối với làng nghề( tín dụng ngân hàng đối với làng nghề là tín dụng ngân hàng đối với khách hàng làm nghề ở các làng nghề). Từ nhận thức này, khoá luận rút ra những đặc trưng chủ yếu của việc cho vay phát triển làng nghề
một là, việc cho vay đó phải gắn với đặc điểm hoạt động của làng nghề. Khi đầu tư tín dụng đối với các đối tuợng ở làng nghề ở nông thôn còn phải bao quát đặc điểm: nghành nghề ở nông thôn rất đa dạng, có hàng trăm nghề, việc phân loại nhóm nghề thuờng căn cứ vào nguyên liệu đầu vào hoặc công nghệ sản xuất. Hiện nay, ở nuớc ta nghề nông thôn có thể chia thành ba nhóm ngành chính: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng; dịch vụ. Ngoài ra còn phải chú trọng một số đặc điểm chủ yếu của ngành nghề nông thôn là về lao động và sử dụng lao động; nhà xuởng và máy móc thiết bị; vốn và quan hệ tín dụng với ngân hàng; nguyên liệu và thị truờng;…
hai là, đặc trưng quan hệ cung cầu vốn đối với các cơ sở làm nghề của làng nghề thuờng là hộ kinh doanh vừa là hộ chuyên, vừa là hộ kiêm mang tính thời vụ, hoạt động kinh doanh chủ yếu trên địa bàn nông thôn. Từ đặc trưng này, nó tác động tới nhu cầu tín dụng thuờng có tính thời vụ rõ rệt, gắn với hoạt động kinh tế nông nghiệp nông thôn. Hơn nữa do thị truờng tài chính nông thôn chưa phát triển và hạn chế về khả năng tích luỹ cũng như hạn chế về khả năng khai thác các nguồn tài chính khác, nên những hộ hoạt động kinh doanh trong ngành nghề phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Ba là, các điều kiện vay vốn so với các quy định hiện nay thuờng không đầy đủ. Số luợng khách hàng và các món vay nhiều, phân tán trên nhiều địa bàn nhưng giá trị từng món vay lại nhỏ và cơ chế cho vay đối với ngành nghề chưa có, hiện nay chủ yếu vận dụng theo cơ chế cho vay đối với hộ sản xuất. Từ đó dẫn đến quan hệ tín dụng với ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
Bốn là, là loại tín dụng đa dạng. Đa dạng về đối tuợng vay vốn ở mỗi ngành nghề, mỗi vùng khác nhau là khác nhau. Nhu cầu vốn, thời hạn cho vay, thu nợ ngay cùng một ngành nghề cũng có khi khác nhau, nó tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên từng vùng, điều kiện kinh tế từng hộ khác nhau. Đa dạng hoá về hình thức chuyển tải vốn; Trực tiếp, gián tiếp, qua tổ vay vốn đoàn thể cả bằng tiền mặt, chuyển khoản, cả bằng hiện vật. Đa dạng về hình thức trả nợ… Ngoài ra thực hiện quy trình tín dụng chủ yếu đơn giản như: thẩm định dự án đầu tư vốn chỉ là phuơng án SXKD đơn giản, chu kỳ sản xuất kinh doanh do tự nhiên định sẵn, nơi sinh sống của các khách hàng vay vốn chủ yếu là sống cố định tại một địa phuơng, tài sản đảm bảo nợ vay thuờng có tính cha truyền con nối, đồng sở hữu trong gia đình…
Năm là, vừa mang tính thuơng mại vùă mang tính chính sách nhằm phục vụ các chương trình phát triển kinh tế của nhà nước thuộc khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn. Sự ảnh huởng bởi yếu tố chính sách đặc biệt rõ ở những nơi mà chua tách đuợc đối tuợng thuộc ngân hàng chính sách xã hội. trong những truờng hợp này việc tính toán hiệu quả tín dụng sẽ trở nên rất khó khăn do không chỉ căn cứ vào lợi nhuận của ngân hàng mà còn phải tính toán đến lợi ích lâu dài, lợi ích toàn xã hôi, phải căn cứ vào các định hướng phát triển kinh tế từng vùng, từng thời kỳ.
Sáu là, cho vay