Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam (VN), hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước. Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bắt đầu từ sự sụp đổ của chương trình cho vay thứ cấp của một số ngân hàng, kéo theo hàng loạt các ngân hàng khác. Điển hình là Ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ sau 158 năm tồn tại, Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm, America Internationnal Group (viết tắt là AIG) tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan đến nợ cầm cố. Hậu quả là ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới [11]. Sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới – Word Trade Oganization (viết tắt là WTO), Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, thì việc bị ảnh hưởng là điều tất yếu. Hội nhập quốc tế đã đưa Việt Nam đến gần với thế giới hơn và ngày càng có chỗ đứng trên trường quốc tế, nền kinh tế của Việt Nam đã có được sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực nhưng bên cạnh đó cũng đem đến nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta. Chính quá trình đó đã gây áp lực đối với các doanh nghiệp cần phải củng cố tiềm lực, tìm kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường để chuẩn bị bước vào một cuộc cạnh tranh mới [12], đặt ra cho các doanh nghiệp VN, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các NHTMVN phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển phù hợp với xu thế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.[11]
Sau nhiều năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước.
85 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2892 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-----(((-----
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam (VN), hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước. Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bắt đầu từ sự sụp đổ của chương trình cho vay thứ cấp của một số ngân hàng, kéo theo hàng loạt các ngân hàng khác. Điển hình là Ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ sau 158 năm tồn tại, Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm, America Internationnal Group (viết tắt là AIG) tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan đến nợ cầm cố. Hậu quả là ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế thế giới [11]. Sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới – Word Trade Oganization (viết tắt là WTO), Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, thì việc bị ảnh hưởng là điều tất yếu. Hội nhập quốc tế đã đưa Việt Nam đến gần với thế giới hơn và ngày càng có chỗ đứng trên trường quốc tế, nền kinh tế của Việt Nam đã có được sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực nhưng bên cạnh đó cũng đem đến nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta. Chính quá trình đó đã gây áp lực đối với các doanh nghiệp cần phải củng cố tiềm lực, tìm kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường để chuẩn bị bước vào một cuộc cạnh tranh mới [12], đặt ra cho các doanh nghiệp VN, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các NHTMVN phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển phù hợp với xu thế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.[11]
Sau nhiều năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt, kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi mới, phát triển của các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp nói riêng; thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nước.
Nhu cầu về nguồn vốn luôn luôn là một yếu tố hết sức cần thiết và quyết định cho sự phát triển hay thụt lùi của các doanh nghiệp nói chung hay các Ngân hàng thương mại nói riêng. Vốn chính là tiềm lực tài chính, là yếu tố căn bản đảm bảo khả năng hoạt động và khả năng thanh khoản của các Ngân hàng. Do đó, việc sử dụng nguồn vốn bằng phương thức cho vay hay cấp tín dụng một cách có hiệu quả là vấn đề rất quan trọng đối với các Ngân hàng. Thêm vào đó, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trên thị trường cung cấp vốn đang ngày càng quyết liệt.
Vì thế để có thể đứng vững và phát triển trước xu hướng cạnh tranh gay gắt như hiện nay đòi hỏi các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á nói riêng phải luôn đổi mới, tìm ra các giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tín dụng theo tiêu chí chất lượng cao, vững chắc, an toàn và hiệu quả trên cơ sở các nội dung chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009. Quyết định số 342/QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN về việc ban hành kế hoạch hành động của NHNN Việt Nam đề triển khai thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng theo Nghị quyết số 01/QĐ-CP ngày 09/01/22009, Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008, Nghị quyết 30a/2008/QĐ-CP ngày 27/12/2008, Quyết định số 167/2008/QĐ-TT ngày 12/12/2008. Công văn số 9776/NHNN-CSTT ngày 03/11/2008 về thực hiện một số biện pháp về tín dụng và lãi suất.[16]
Từ nhận định trên, em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” để làm nội dung cho báo cáo nghiên cứu khoa học của mình.
2. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI.
Trên thế giới có rất nhiều các công trình nghiên cứu về kinh tế nhưng trong đó nổi bật nhất có lẽ là mô hình lý thuyết của Arrow - Debreu về thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Nhưng dường như nó đã không còn thích hợp trong việc giải thích tính chất phức tạp của bất kỳ thị trường hiện đại nào nữa. Do tính chất bất hoàn hảo của thị trường mà đặc điểm nổi bật đó là sự bất hoàn hảo về thông tin và sự tồn tại của chi phí giao dịch (transaction cost), nên vấn đề tiếp cận vốn của các doanh nghiệp luôn bị hạn chế. Tình trạng trên trầm trọng hơn đối với các nước đang phát triển, nơi mà hệ thống tài chính thường không theo kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Các hệ thống tài chính này thường không đáp ứng được yêu cầu kết nối giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn. Cũng như không tạo ra được nhiều sản phẩm tài chính nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng về rủi ro khác nhau của các chủ thể tiết kiệm và đầu tư. Sự yếu kém của hệ thống tài chính làm cho các hộ gia đình không thể đạt được mức độ mong muốn trong việc đưa ra các quyết định về việc phân bổ tiêu dùng hiện tại và tương lai, và do đó giảm lợi ích so với điều kiện có thể. Không tiếp cận được các nguồn vốn, các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế quan trọng của nền kinh tế, không thể đầu tư vào các quá trình sản xuất và làm cho tổng cầu thấp hơn so với tiềm năng của nó. Ngoài ra, các doanh nghiệp không thể sản xuất với sản lượng mong muốn (và do đó sử dụng lao động) với từng mức giá cả (và lãi suất) trong nền kinh tế, gây ra sự sút giảm tổng cung. Nếu chúng ta nhìn vấn đề trên dưới góc độ của một hàm sản xuất truyền thống thì sự yếu kém của hệ thống tài chính ảnh hưởng xấu tới sự tăng trưởng kinh tế thông qua tác động làm giảm quá trình tích luỹ vốn và làm chậm tiến trình phát triển của khoa học công nghệ (Levin 1997).[17]
Hay vấn đề về sự bất cân xứng về thông tin mà tác động của nó có thể là sự lựa chọn xấu (adverse selection) và sự suy giảm về đạo đức (moral hazard) ảnh hưởng tới hành vi của các chủ thể kinh tế, và do đó tới sự phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, đã được đề cấp khá nhiều trong các lý thuyết kinh tế (Akerlof 1970, Stiglitz và Weiss 1981, Myers và Majluf 1984). Thật không may là các doanh nghiệp nhỏ thường là người bị thua thiệt nhiều hơn dưới tác động của sự bất cân xứng về thông tin, lý do là mức độ phân tán thông tin của các doanh nghiệp nhỏ thường ít hơn so với doanh nghiệp lớn, qui mô của các khoản vay của các doanh nghiệp này thường nhỏ dẫn tới chi phí giao dịch cao, do đó các doanh nghiệp nhỏ dễ bị từ chối các nguồn tài chính bên ngoài[17].
Năm 2008 đang dần khép lại với biết bao sự kiện, diễn biến phức tạp và khó lường của nền kinh tế thế giới, cũng là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới. Trong những năm gần đây, khi nước ta quyết định mở cửa và hội nhập với thế giới đã tạo sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực, trong đó một trong những lĩnh vực tiên phong, mạnh mẽ và sôi động nhất chính là kinh tế [10]. Rất nhiều tập đoàn kinh tế toàn cầu đã có mặt tại Việt Nam tạo nên một môi trường cạnh tranh sôi động làm cho khoảng cách giữa các quốc gia đang thu hẹp đến độ chúng ta có cảm giác cả thế giới đang sống chung trong một mái nhà. Và có lẽ nhận định đó biểu hiện rõ ràng, cụ thể, sâu sắc nhất trong lĩnh vực kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng [16]. Chính quá trình đó đã gây áp lực đối với các ngân hàng cần phải củng cố tiềm lực, tìm kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường. Vì lý do đó đã có nhiều giáo sư tiến sĩ ở Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề này, cùng với sự nghiên cứu của hầu hết các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại để tìm ra hướng phát triển của mình. Tuy nhiên hai công trình nghiên cứu được coi là cụ thể nhất và phù hợp với thời kỳ mới là “Tiền tệ ngân hàng” của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Dờn và “Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại” của Tiến sĩ Nguyễn Minh Kiều [4],[5]. Đây được xem là hai công trình tiêu biểu nhất được xuất bản trên thị trường, mang lại kiến thức thiết thực về những vấn đề tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường để dựa trên cơ sở đó các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các ngân hàng thương mại ở Việt Nam có thể áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh của mình cũng như đưa ra các giải pháp kinh doanh, nâng cao chất lượng tín dụng một cách hiệu quả hơn.
Tại tỉnh Đồng Nai, một trong những tỉnh năng động và được xem là có nền kinh tế phát triển của quốc gia, hoạt động kinh tế ở đây diễn ra khá sôi động, nhất là hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh [8]. Vì vậy, UBND tỉnh Đồng Nai đã nghiên cứu vào đề ra những chiến lược, chỉ tiêu để tăng năng lực cạnh tranh, đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô tín dụng của các ngân hàng thương mại trong địa bàn tỉnh [9]. Tuy nhiên, bên cạnh các mục tiêu, định hướng mà tỉnh đề ra thì hầu hết các ngân hàng đều tự tìm ra những chiến lược cạnh tranh riêng, những hướng đi, những giải pháp cho riêng mình và bảo mật các ý tưởng này cho đến khi được thực hiện để có thể cạnh tranh lành mạnh với các đối thủ trong cũng như ngoài tỉnh, đảm bảo cho sự phát triển bền vững thương hiệu của mình [10].
Qua tìm hiểu về các công trình nghiên cứu trước đây cho thấy đã có nhiều đề tài đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tại các đơn vị Ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và cũng đã có đề tài nghiên cứu về các vấn đề về tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á nói chung và tại chi nhánh Quang Vinh nói riêng như của các tác giả Nguyễn Cao Quang Nhật, Lý Thị Mai Trang,… nhưng các đề tài này chỉ mới nghiên cứu về quy trình thẩm định tín dụng hoặc các vấn đề khác về tín dụng chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh. Thêm vào đó, đề tài nghiên cứu này lại nằm trong giai đoạn mới- giai đoạn đất nước có nhiều sự biến động do bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính từ nền kinh tế của thế giới. Do đó, đề tài nghiên cứu về “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” sẽ là đề tài nghiên cứu về vấn đề mới nằm trong giai đoạn mới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong bài báo cáo nghiên cứu khoa học này tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn bao gồm các phương pháp mô tả, so sánh, thống kê, phân tích.
- Tác giả đã thu thập số liệu thống kê, tài liệu về tình hình tín dụng trong những năm gần đây tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh, qua đó sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, mô tả để đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng chất lượng tín dụng và mức độ rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh thông qua các chỉ số như: huy động vốn, dư nợ, nợ quá hạn,….
- Từ thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh thêm vào đó thông qua việc tham khảo thêm tài liệu, sách, báo có liên quan đến chất lượng tín dụng tác giả đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
- Từ đó tìm ra được những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, những mặt tích cực và hạn chế tồn tại trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
- Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp và chính sách phù hợp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2009. Những giải pháp và kiến nghị đưa ra áp dụng trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2012.
- Không gian nghiên cứu: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh tại địa chỉ 19/1 Ấp Đồng Nai - xã Hóa An - thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.
Qua những vấn đề nghiên cứu của đề tài “ Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh ” sẽ giúp cho đơn vị thấy được những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, những mặt mặt tích cực và những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động tín dụng để trên cơ sở đó đề ra những giải pháp và chính sách phù hợp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại đơn vị.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI.
Trong năm vừa qua nền kinh tế thế giới có nhiều sự thay đổi lớn, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ sự sụp đổ của các Ngân hàng, Tập Đoàn lớn ở nước Mỹ kéo theo nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề. Việt Nam, sau khi gia nhập vào WTO thì việc bị ảnh hưởng ít nhiều là điều tất yếu. Nền kinh tế của Việt Nam nói chung hay các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, Ngân hàng nói riêng hiện đang nằm trong giai đoạn khó khăn. Vì thế Chính phủ và các cấp lãnh đạo của Việt Nam cần phải đề ra các giải pháp, chính sách phù hợp để đưa nền kinh tế của nước ta thoát ra khỏi tình trạng khó khăn như hiện nay.
Nằm trong giai đoạn kinh tế trong nước có nhiều sự đổi mới đó đề tài nghiên cứu về “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” sẽ đóng góp một số giải pháp mới để mở rộng hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh nói riêng hay các đơn vị Ngân hàng khác nói chung. Qua đó đóng góp một phần nhỏ vào việc đưa các Ngân hàng nói riêng hay các tổ chức tài chính trong nền kinh tế trong nước nói chung thoát khỏi trình trạng khó khăn như giai đoạn hiện nay.
8. KẾT CẤU CỦA BÀI BÁO CÁO
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo nghiên cứu khoa học gồm 3 chương lớn sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về tín dụng Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại NH TMCP Đaị Á – CN Quang Vinh.
Chương 3: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NH TMCP Đại Á – CN Quang Vinh
Phần cuối của bài báo cáo nghiên cứu khoa học là danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu, tài liệu tham khảo và các bảng phụ lục đính kèm.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG:
1.1.1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là Credittum (tin tưởng, tín nhiệm). Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dân gian của Việt Nam là sự vay mượn.
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dụng riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng tập trung lại, trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng được hiểu theo nghĩa như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân hoặc doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. [3]
Khái niệm tín dụng được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ tín dụng
(Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn [3])
Tóm lại tín dụng thể hiện ba mặt cơ bản sau:
Có sự chuyển giao quyển sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác.
Sự chuyển giao chỉ mang tính tạm thời.
Khi hoàn trả lại giá trị đã chuyển giao phải bao gồm cả vốn gốc và lãi
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng:
- Chủ thể: Ngân hàng – các doanh nghiệp, cá nhân.
- Đối tượng: Chủ yếu là tiền tệ.
- Mục đích: phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng,…
- Công cụ lưu thông: kỳ phiếu Ngân hàng, trái phiếu Ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng tín dụng, khế ước vay…
- Thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn….
- Tính chất: mang tính gián tiếp ( trong đó Ngân hàng là định chế tào chính trung gian)
1.1.3. Chức năng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.3.1. Phân phối lại vốn tiền tệ trong nền kinh tế:
Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác, hay cụ thể hơn là sự vận động của vốn từ doanh nghiệp, cá nhân có vốn tạm thời thừa sang các doanh nghiệp, cá nhân đang tạm thời thiếu vốn. Nghĩa là, nhờ vào sự vận động của tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một phần vốn tiền tệ từ các chủ thể khác trong xã hội để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng.
Vốn tín dụng có thể phân phối dưới hai hình thức:
- Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể này sang chủ thể tạm thời thừa vốn sang chủ thể trực tiếp sử dụng vón đó để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
- Phân phối gián tiếp: Việc phân phối được thực hiện thông qua các định chế tài chính trung gian như Ngân hàng, quỹ tín dụng, công ty tài chính……[4]
1.1.3.2.Tạo ra các công cụ lưu thông tín dụng và tiền tín dụng cho nền kinh tế:
Thông qua hoạt động tín dụng đã làm phát sinh các công cụ lưu thông tín dụng như thương phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu,……, các công cụ này có thể lưu thông,
chuyển nhượng có thể thay thế một khối lượng lớn tiền mặt lưu hành.
Mặt khác, trong chế độ lưu thông tiền tệ dựa trên cơ sở bản vị vàng trước đây, thông qua cơ chế tín dụng ngân hàng lại có thể phát hành những đồng tiền giấy . Ở đây khách hàng sẵn sàng chấp nhận sử dụng tiền giấy này vì ngân hàng cam kết sẽ thanh toán bằng vàng trước khi họ nộp tiền giấy vào cho nó, đồng thời khách hàng chấp nhận cho vay vì tin tưởng khách hàng chắc chắn sẽ thanh toán nợ. Như vậy, các Ngân hàng chỉ với một lượng vàng nhất định bằng cơ chế tín dụng sẽ phát hành ra một cơ chế tín dụng có thể phát hành ra một lượng tiền tín dụng lớn hơn gấp bội. Tuy nhiên sẽ có thể bị rủi ro nếu như khách hàng nộp tiền giấy quá nhiều vào Ngân hàng, vượt quá lượng vàng dự trữ tại Ngân hàng đó.
Ngày nay, tiền giấy đã phát hành vào lưu thông đã tách rời dự trữ vàng của Ngân hàng. Nhưng việc phát hành tiền vẫn được thực hiện thông qua con đường tín dụng như: tái cấp vốn cho Ngân hàng trung gian, cho vay đối với Ngân sách Nhà nước…Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, đồng thời đảm bảo đủ phương tiện thanh tóan phục vụ lưu thông hàng hóa được bình thường.[4]
1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.4.1. Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tái sản xuất xã hội:
- Tín dụng giúp điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ đó góp phần duy trì, thúc đẩy quá trình mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh được thường xuyên và liên tục với một chi phí hợp lý.
- Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, từ đó, kích thích quá trình tiết kiệm và gia tăng vốn đầu tư phát triển cho xã hội.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng Ngân hàng phải rải đều c