Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải quan tâm tới vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong đó xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, làm cân bằng cán cân thương mại, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO lại càng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung, tăng trưởng cho kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Song, nền kinh tế sau hội nhập cũng đang phải gồng mình lên trước khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ chính các nước mà ta đã nghĩ rằng sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, mà sự tác động trực tiếp là đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bong bong bất động sản có nguyên nhân sâu xa từ tín dụng dưới chuẩn tràn lan đã nổ như báo hiệu sự xuất hiện của khủng hoảng tại nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Khủng hoảng tài chính càng làm cho suy thoái kinh tế đã xuất hiện lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Biểu hiện mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng ở các nước phát triển không cần phải đề cập đến nhiều vì đã quá rõ và đó cũng là nguyên nhân khiến cho các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu cảm thấy sức nóng của mình. Sự ảnh hưởng lớn nhất có thể dễ dàng nhận ra đó là sự tụt dốc của ngành xuất khẩu ở các nước. Trung Quốc – quốc gia có tăng trưởng kinh tế nóng nhất thế giới có lẽ là ví dụ nổi bật nhất, hiện đang đối mặt với khó khăn trong xuất khẩu khi mới chỉ mấy tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đã giảm 20% so với cùng kỳ năm 2008. Việt Nam cũng không nằm ngoài danh sách các nước gặp khó khăn trong vấn đề này. Các con số thống kê những tháng đầu năm 2009 quả là đáng lo ngại. Các Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang lâm vào tình cảnh khó khăn khi có quá nhiều rủi ro chờ đón phía trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước phát triển đều giảm đi đáng kể ngay cả với hàng hóa trong nước cũng như hàng hóa nhập khẩu. Trong khi các nước đang suy thoái đó lại chiếm phần lớn trong “chiếc bánh” Xuất khẩu của Việt Nam. Chưa cần nhắc đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nước xuất khẩu với nhau thì tình hình khó khăn của các thị trường tiêu thụ cũng đủ khiến cho tình hình của các Doanh nghiệp xuất khẩu không mấy sáng sủa. Kinh tế khó khăn, đầu tư giảm sút, nhu cầu về nguyên nhiên liệu giảm cũng làm cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô khốn đốn.
Như vậy, với các rủi ro tiềm ẩn vốn có, nguồn vốn đối với ngành Xuất khẩu chưa bao giờ là đủ, thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế hiện nay khiến cho các Doanh nghiệp xuất khẩu càng điêu đứng, khó khăn. Cũng như đã đề cập đến, Xuất khẩu là một ngành quan trọng trong quá trình hội nhập thương mại toàn cầu hiện nay, nên cũng như các nước khác, chính sách tín dụng Xuất khẩu là một chính sách đang được Chính phủ quan tâm thực hiện.
May mắn được thực tập ở Ngân hàng Phát triển Việt Nam, em đã được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin cũng như các hoạt động liên quan chặt chẽ đến tình hình hỗ trợ của Chính phủ cho ngành xuất khẩu nước nhà. Từ những băn khoăn của mình về tình hình của ngành xuất khẩu Việt Nam như đã nhắc đến ở trên, em đã nghiên cứu và thực hiện chuyên đề thực tập của mình về đề tài:“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam”.
99 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1923 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại ngân hàng phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải quan tâm tới vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong đó xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, làm cân bằng cán cân thương mại, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO lại càng tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế Việt Nam nói chung, tăng trưởng cho kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Song, nền kinh tế sau hội nhập cũng đang phải gồng mình lên trước khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ chính các nước mà ta đã nghĩ rằng sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, mà sự tác động trực tiếp là đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bong bong bất động sản có nguyên nhân sâu xa từ tín dụng dưới chuẩn tràn lan đã nổ như báo hiệu sự xuất hiện của khủng hoảng tại nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Khủng hoảng tài chính càng làm cho suy thoái kinh tế đã xuất hiện lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Biểu hiện mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng ở các nước phát triển không cần phải đề cập đến nhiều vì đã quá rõ và đó cũng là nguyên nhân khiến cho các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu cảm thấy sức nóng của mình. Sự ảnh hưởng lớn nhất có thể dễ dàng nhận ra đó là sự tụt dốc của ngành xuất khẩu ở các nước. Trung Quốc – quốc gia có tăng trưởng kinh tế nóng nhất thế giới có lẽ là ví dụ nổi bật nhất, hiện đang đối mặt với khó khăn trong xuất khẩu khi mới chỉ mấy tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đã giảm 20% so với cùng kỳ năm 2008. Việt Nam cũng không nằm ngoài danh sách các nước gặp khó khăn trong vấn đề này. Các con số thống kê những tháng đầu năm 2009 quả là đáng lo ngại. Các Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang lâm vào tình cảnh khó khăn khi có quá nhiều rủi ro chờ đón phía trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước phát triển đều giảm đi đáng kể ngay cả với hàng hóa trong nước cũng như hàng hóa nhập khẩu. Trong khi các nước đang suy thoái đó lại chiếm phần lớn trong “chiếc bánh” Xuất khẩu của Việt Nam. Chưa cần nhắc đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nước xuất khẩu với nhau thì tình hình khó khăn của các thị trường tiêu thụ cũng đủ khiến cho tình hình của các Doanh nghiệp xuất khẩu không mấy sáng sủa. Kinh tế khó khăn, đầu tư giảm sút, nhu cầu về nguyên nhiên liệu giảm cũng làm cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô khốn đốn.
Như vậy, với các rủi ro tiềm ẩn vốn có, nguồn vốn đối với ngành Xuất khẩu chưa bao giờ là đủ, thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế hiện nay khiến cho các Doanh nghiệp xuất khẩu càng điêu đứng, khó khăn. Cũng như đã đề cập đến, Xuất khẩu là một ngành quan trọng trong quá trình hội nhập thương mại toàn cầu hiện nay, nên cũng như các nước khác, chính sách tín dụng Xuất khẩu là một chính sách đang được Chính phủ quan tâm thực hiện.
May mắn được thực tập ở Ngân hàng Phát triển Việt Nam, em đã được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin cũng như các hoạt động liên quan chặt chẽ đến tình hình hỗ trợ của Chính phủ cho ngành xuất khẩu nước nhà. Từ những băn khoăn của mình về tình hình của ngành xuất khẩu Việt Nam như đã nhắc đến ở trên, em đã nghiên cứu và thực hiện chuyên đề thực tập của mình về đề tài:“Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam”.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề này được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc nghiên cứu tìm hiểu và học hỏi để hoàn thành chuyên đề, nhưng chắc chắn em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô, ban lãnh đạo và các anh chị trong Ban tín dụng Xuất khẩu, Ngân hàng Phát triển Việt Nam để chuyên đề được thành công hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN
Tổng quan về Ngân hàng phát triển
Khái niệm Ngân hàng phát triển
Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính gắn liền với quá trình phát triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiền tiết kiệm, tiền đầu tư của nền kinh tế và tài trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời. Phần lớn các trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi ích tài chính của chủ sở hữu. Song có một số tổ chức hoạt động với các mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới lợi ích kinh tế xã hội nhiều hơn. Những thể chế thực hiện các mục tiêu đó có thể kể ra là: Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng xuất nhập khẩu, Ngân hàng phát triển và các định chế tài chính khác được gọi chung là các tổ chức tài chính phát triển. Các tổ chức này phục vụ các loại hình doanh nghiệp, dịch vụ có tính chất ưu đãi của Nhà nước.
Như vậy, Ngân hàng Phát triển (NHPT) thực chất là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu của nó là nhằm tài trợ có hiệu quả cho các chương trình phát triển kinh tế do Chính phủ hoạch định. Nói cách khác, NHPT là một kênh hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách tài trợ ưu đãi.
Để thực hiện mục tiêu của Chính phủ, NHPT cũng có những đặc trưng cơ bản chủ yếu như sau:
Là một tổ chức tín dụng do Nhà nước thành lập và 100% vốn Nhà
nước, hoạt động của Ngân hàng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ và đặt dưới sự kiểm soát của Chính phủ.
Hoạt động của NHPT không vì mục đích lợi nhuận, được Chính phủ
đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp Ngân sách Nhà nước.
Các hoạt động của Ngân hàng phát triển
Tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ phát triển, NHPT có thể thực hiện một hay nhiều chính sách khác nhau, có thể chỉ thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, hoặc thực hiện chính sách đầu tư phát triển và chính sách đầu tư xuất khẩu hay thực hiện nhiều nhiệm vụ khác. Chung quy lại, hoạt động của NHPT thực hiện trên cơ sở chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ (tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu) và các dịch vụ khác cho các đối tượng ưu tiên và có trọng điểm nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Tính chất ưu đãi của chính sách thong qua hoạt động của NHPT có thể là: Cho vay với lãi suất thấp; không cần tài sản thế chấp hoặc cần ở mức thấp so với giá trị khoản vay; tài trợ cho các dự án đầu tư, hợp đồng xuất khẩu có rủi ro cao, ưu đãi về mức phí, hạn mức tín dụng, các hình thức bổ trợ dưới dạng cam kết trả thay cho các NHTM để các ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các Doanh nghiệp (DN) khi các DN gặp rủi ro không trả được nợ để vừa giảm áp lực về vốn cho vay trực tiếp của Nhà nước, vừa tạo điều kiện cho các DN được tài trợ, từ đó thúc đẩy nền sản xuất phát triển theo đúng chương trình của Chính phủ. NHPT thực hiện chính sách tín dụng của Chính phủ thông qua các hoạt động cơ bản sau:
Huy động và quản lý vốn: huy động vốn là một nhiệm vụ quan trọng
của NHPT, nhưng bài toán đặt ra đối với NHPT là làm thế nào để huy động được vốn với lãi suất bình quân thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro trong điều kiện cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng gia tăng, tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư thấp. Điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực kết hợp giữa NHPT và các điều kiện kinh tế, pháp luật phù hợp.
Các hình thức huy động vốn bao gồm: huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế trên thị trường, phát hành trái phiếu Chính phủ, hoặc Chính phủ bảo lãnh, huy động các quỹ của Nhà nước, các khoản vay tài trợ của các tổ chức khác, vay nước ngoài (các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính có mục tiêu cho vay ưu đãi với các dự án phát triển như Ngân hàng thế giới, NHPT khu vực hoặc các quỹ dành cho phát triển của Chính phủ tại các nước phát triển), vốn và quỹ của NHPT.
Quản lý nguồn vốn với phương châm tìm kiếm và thực hiện các biện pháp gia tăng quy mô nguồn vốn có lãi suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định là điều kiện sống còn của NHPT. Các cách thường thực hiện là liên kết các dự án trong nước và nhà tài trợ nước ngoài, xúc tiến thường xuyên các hoạt động kêu gọi tài trợ, xác lập mối quan hệ giữa Chính phủ với ngân hàng trong tài trợ dự án, phát hành trái phiếu Chính phủ… Đồng thời thực hiện quản lý chặt chẽ kỳ hạn và chi phí vốn.
Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển, dự án xuất khẩu hoặc hợp
đồng xuất khẩu theo đối tượng mục tiêu mà Chính phủ đặt ra trong từng thời kỳ, kết hợp chặt chẽ việc tài trợ và quản lý các khoản tài trợ để đảm bảo an toàn vốn và bù đắp chi phí. Các hoạt động tài trợ gồm:
+ Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển đã được chỉ định trước của chủ tài trợ (cho vay theo chỉ định của Chính phủ, quản lý và cho vay lại các nguồn vốn ODA, cho vay các quỹ quay vòng), cho vay theo đối tượng ưu tiên, có thể tài trợ độc lập hoặc đồng tài trợ, bảo lãnh tín dụng đầu tư…
+ Tài trợ cho các dự án xuất khẩu với tỷ lệ doanh thu xuất khẩu quy định, quản lý và cho vay các dự án ODA ra nước ngoài, tài trợ dự án xuất khẩu tư liệu sản xuất sang thị trường ưu tiên, cho vay ngắn hạn những đối tượng ưu tiên, bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cho thuê.
Cung cấp các dịch vụ thanh toán, tư vấn cho DN, cung cấp thông tin
và các dịch vụ thu nợ khó đòi…
Cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển
Tín dụng xuất khẩu là hình thức tài trợ trực tiếp về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu (NXK) nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu (NNK) nước ngoài có đủ các điều kiện về tài chính để nhập khẩu hàng hóa của nước đó.
Trong tín dụng xuất khẩu thì cho vay xuất khẩu (CVXK) là hình thức đầu tiên xuất hiện và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa và nền kinh tế, tín dụng xuất khẩu phát triển ở những cấp độ cao hơn, đa dạng hơn, từ hình thức trực tiếp phát triển thêm các hình thức gián tiếp như: Cho vay NNK, bảo lãnh xuất khẩu, bao thanh toán, cho thuê tài chính… và có sự bổ trợ bởi bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Tuy đa dạng như vây song xét về cơ bản thì các loại hình này đều có chung bản chất là sự cung cấp tín dụng trợ giúp tài chính cho NXK trên cơ sở bên cung cấp tín dụng và bên nhận tín dụng tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi.
1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của cho vay xuất khẩu
Về bản chất, cho vay là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định; đó là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vón và là quan hệ bình đẳng, các bên cùng có lợi. Trên cơ sở đó, cho vay xuất khẩu của NHPT là một hình thức mà bên cho vay (là NHPT) cung cấp vốn có thời hạn cho bên vay (bao gồm NXK và NNK) để thực hiện được hợp đồng xuất khẩu hay dự án xuất khẩu, nhưng có những đặc trưng riêng để phản ánh được tính chất hỗ trợ của Nhà nước:
Cho vay xuất khẩu có mục đích không vì lợi nhuận: Với mục tiêu hỗ
trợ để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ sử dụng công cụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ tài chính cho các DN, cá nhân để đầu tư đổi mới công nghệ, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh trah của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu chiến lược và có tỷ lệ xuất khẩu đảm bảo quy định của Nhà nước sẽ được vay vốn của Nhà nước với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, lãi suất này sẽ tăng với tỷ lệ thấp hơn mức độ tăng rủi ro và độ lớn của khoản vay. Điều này đảm bảo tính chất hỗ trợ cho các khoản vay lớn, chiến lược nhưng có nhiều rủi ro hoặc giúp cho các Doanh nghiệp cải thiện khả năng sinh lời khi đầu tư vào mặt hàng mới, thị trường mới. Đây là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa tín dụng nhà nước và tín dụng thương mại vì hầu hết các NHTM đều hoạt động trên cơ sở thu lợi từ việc cho vay và rủi ro càng cao thì lãi suất áp dụng càng cao.
Đối tượng cho vay được chọn lọc và hạn chế: Trong khi các nguồn
lực của Nhà nước có hạn và NHPT được thiết kế là một kênh cung cấp tín dụng có hiệu quả trên cơ sở thu hồi vốn cho vay thay vì Nhà nước cho không, theo đó mỗi quốc gia sẽ xác định những mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong từng thời kỳ phát triển kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy mặt hàng đó, tín dụng xuát khẩu của Nhà nước được thiết kế để thực hiện yêu cầu này. Do đó, đối tượng cho vay của NHPT hạn chế hơn các NHTM, các đối tượng có thể thay đổi trong thời kỳ tùy thuộc vào chiến lược xuất khẩu. Đặc điểm này cho thấy hoạt động cho vay của NHPT không cạnh tranh với các NHTM mà ngược lại, cho vay của NHPT và NHTM sẽ cùng nhau thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
Cơ chế cho vay ưu đã hơn hình thức cho vay thông thường: Ưu đãi
đầu tiên là ưu đãi về lãi suất, điều này chỉ NHPT mới làm được vì Nhà nước sẽ cấp bù chênh lệch lãi suất (Cho vay thấp hơn lãi suất huy động) hoặc NHPT được huy đọng những nguồn vốn có lãi suất rẻ hơn lãi suất của thị trường. Các NHTM thường ngần ngại khi cho vay đối với các dự án có thời hạn dài vì rủi ro cao và không tương thích với kỳ hạn huy động thường có của họ, còn tín dụng ưu đãi của Nhà nước sẵn sàng chấp nhận rủi ro ở mức nhất định và tạo điều kiện cho DN hoàn trả nợ theo đúng chu kỳ sinh lợi của dự án, kỳ thu tiền của hợp đồng xuất khẩu nên sẽ thay NHTM hỗ trợ cho vay đối với các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh có nhu cầu vay vốn trong thời gian dài. Ưu đãi tiếp theo là đảm bảo tiền vay không cần thiết hoặc ở mức dưới giá trị vốn vay. Khi vay vốn tại NHTM, các đơn vị, đặc biệt là các DN mới, kinh doanh những mặt hàng có rủi ro cao phải thế chấp tài sản và có khi thế chấp bằng hoặc cao hơn giá trị khoản vay. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng có đủ tài sản để thế chấp khi vay vốn, vì vậy tín dụng ưu đãi của Nhà nước có cơ chế riêng về đảm bảo tiền vay với một mức tài sản thế chấp tối thiểu hoặc không phải thế chấp khi vay vốn.
Các hình thức của cho vay xuất khẩu
Theo thời hạn: Có hai loại là CVXK ngắn hạn và CVXK trung,
dài hạn.
Việc phân chia cho vay ngắn hạn và trung dài hạn chỉ mang tính chất tương đối và là cơ sở để các ngân hàng và các tổ chức tín dụng xác định mức lãi suất cho vay cũng như cân đối kế hoạch nguồn vốn hoạt động của mình trong từng giai đoạn.
CVXK ngắn hạn: là các khoản CVXK có thời hạn vay dưới 1 năm.
Về nguyên tắc, CVXK ngắn hạn có thể cung cấp cho cả người mua và người bán, tuy nhiên do thời gian thanh toán ngắn nên các cơ quan cung cấp tín dụng thường thực hiện cho vay thời hạn ngắn đối với người bán. Cho vay ngắn hạn chủ yếu nhằm phục vụ cho các nhu cầu chi trả trực tiếp cho thương vụ xuất khẩu của đơn vị như: cho vay mua nguyên liệu, phụ liệu, năng lượng cho sản xuất, cho vay trả lương công nhân và các chi phi khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. CVXK ngắn hạn có thể được thực hiện dưới các hình thức cho vay để chuẩn bị hàng xuất, cho vay trong khuôn khổ nhờ thu, chiết khấu hối phiếu hoặc trên cơ sở thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Thời hạn cho vay phụ thuộc vào thời gian thực hiện thương vụ, thông thường bắt đầu từ khi DN thu mua nguyên liệu, sau đó chế biến, thực hiện xuất khẩu, chờ tiền thanh toán của NNK theo hình thức thanh toán của hợp đồng xuất khẩu/ Thư tín dụng đến khi nhận được tiền thanh toán.
CVXK trung, dài hạn:
Là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm.
Hình thức này được sử dụng để tài trợ cho các hợp đồng xuất khẩu trả chậm trên 1 năm, đặt cọc, bảo lãnh, bảo hiểm cho những hợp đồng xuất khẩu có thời gian thực hiện dài. Tuy nhiên, hình thức này chủ yếu tài trợ cho mở rộng khả năng sản xuất cho NXK như mở rộng nhà máy, mua sắm thêm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua tài sản cố định phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Việc cho vay với thời hạn dài nếu chỉ căn cứ vào nguồn thu từ hợp đồng xuất khẩu thì thông thường các tổ chức tín dụng chỉ tài trợ đối với các hợp đồng có hình thức thanh toán là thư tín dụng (L/C) với ngân hàng mở L/C hoặc ngân hàng xác nhận/ ngân hàng bảo lãnh có uy tín hoặc được chính phủ của nước nhập khẩu bảo lãnh thanh toán; thời hạn cho vay tùy thuộc vào thời gian sản xuất và kỳ hạn thu tiền từ hợp đồng xuất khẩu. Đối với hình thức cho vay đầu tư mở rộng/ đầu tư chiều sau của các DN xuất khẩu, việc quyết định cho vay phụ thuộc vào tính khả thi của dự án, khả năng tài chính của NXK bên cạnh mối quan hệ tín nhiệm của bên vay; thời hạn cho vay đối với khoản vay trung, dài hạn để đầu tư dự án bắt đầu tư khi bên vay thực hiện dự án từ khâu khảo sát, thiết kế, xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị, đi vào sản xuất đến khi ký được hợp đồng xuất khẩu, sản xuất hàng hóa, xuất khẩu và nhận tiền thanh toán. Thời điểm cấp tín dụng và khối lượng tín dụng cấp mỗi lần phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của người vay. CVXK lúc này có vai trò cung cấp vốn cho NXK tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh mà không phải chờ đến khi có tiền thanh toán từ NNK. Theo đó, nếu dàn xếp được khoản vay trung, dài hạn, NXK có thể chấp nhận cho phía NNK trả chậm để tăng kim ngạch xuất khẩu.
Theo đối tượng được cung cấp khoản vay:
Khoản vay dành cho người bán: Là khoản vay cung cấp trực tiếp
cho NXK để chi trả các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, thu mua và xuất khẩu hàng hóa. Thời hạn, lãi suất và điều kiện cho vay tùy thuộc vào nhu cầu thực tế là vốn lưu động hay vốn cố định, khả năng tài chính của NXK và hình thức thanh toán của hợp đồng xuất nhập khẩu, dự án được thực hiện trong nước hay nước ngoài. Đối với các khoản cho vay dài hạn đầu tư ra nước ngoài thường đi kèm với các điều kiện về bảo hiểm và bảo lãnh cho nghĩa vụ thanh toán của khoản nơ. Tín dụng người bán được cung cấp dưới 2 hình thức trước và sau khi giao hàng.
Cho vay trước khi giao hàng: Để có vốn cho sản xuất, nhất là đối với NXK là các DN vừa và nhỏ, họ cần được cung cấp khoản vay trước khi giao hàng. Thực chất đây là khoản vay bổ sung vốn lưu động để mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào và các chi phí khác để có thể sản xuất và thu mua đủ hàng theo đơn đặt hàng. Đối với tín dụng trước khi giao hàng, các ngân hàng rất cẩn thận khi xem xét hạn mức cho vay vì NXK bao giờ cũng muốn tối đa hóa giá trị khoản vay, trong khi khả năng thanh toán lại không chỉ phụ thuộc vào một chỉ tiêu là tình hình tài chính đơn vị.
Cho vay sau khi giao hàng: Là khoản tín dụng cấp cho NXK trong khoảng thời gian kể từ sau khi giao hàng đến khi nhận được tiền thanh toán. Thời gian của các khoản vay này thường từ một tuần đến vài năm tùy thuộc vào hình thức thanh toán của hợp đồng/ Thư tín dụng xuất khẩu. Tùy thuộc vào tính chất của bộ chứng từ, độ tín nhiệm của NXK, NNK cũng như điều khoản thanh toán, các tổ chức tín dụng sẽ quyết định tài trợ hay không tài trợ.
Chiết khấu hối phiếu và cho vay cầm cố hối phiếu là các nguồn tài trợ quan trọng cho xuất khẩu. Nhìn chung, NXK có thể vay vốn nhanh chóng với các hình thức này. Nếu là chiết khấu, hối phiếu được bán cho tổ chức tín dụng trước ngày đến hạn để lấy nguồn tiền tài trợ với mức 90% giá trị hàng xuất. Thông thường, hối phiếu thường phải được gửi kèm với một thư tín dụng và phải được người mua chấp nhận thanh toán, trường hợp hối phiếu chưa đuwcj NNK chấp nhận thanh toán, NXK yêu cầu ngan hàng phục vụ mình cho vay cầm cố bằng hối phiếu, số tiền mà ngân hàng cho vay NXK bằng với trị giá hối phiếu sau khi xuất trình hối phiếu để cầm cố và ngân hàng coi đây là một khoản tín dụng với tài sản đảm bảo là hối phiếu. Nếu NNK không thanh toán số tiền trên hối phiếu, NXK sẽ hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã được cấp trước đó.
Khoản vay dành cho người mua: Là khoản vay dành cho các NNK
người nước ngoài để tài trợ xuất khẩu hoặc tài trợ