Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công
nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ
thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó
khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện
rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả
nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của
ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động ngân hàng cũngnhư chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ
thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nợ tồn đọng
từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm
2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt
Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để
phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp
tục đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới to àn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh
NHCTII-HBT cũng cósự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả
hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải
khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ
trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về sốtuyệt đối thì có sự tăng
lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã
tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình
trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với
sựđổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTIIHBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động
tín dụng của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình
hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn -Khoa Ngân hàng Tài chính 3
HBT”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín
dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng
ngắn hạn tại NHCTII-HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3
phần:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTIIHBT.
ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn
của NHCTII-HBT.
94 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh ngân hàng công thương II - HBT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn
hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
2
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công
nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ
thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó
khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện
rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả
nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của
ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ
thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nợ tồn đọng
từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm
2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt
Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để
phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp
tục đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh
NHCTII-HBT cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả
hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải
khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ
trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng
lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã
tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình
trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với
sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
HBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động
tín dụng của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình
hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
3
HBT”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín
dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng
ngắn hạn tại NHCTII-HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3
phần:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-
HBT.
ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn
của NHCTII-HBT.
Em xin chân thành cảm ơn GS – Tiến sĩ Cao Cự Bội đã tận tình giúp
đỡ em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại
NHCTII-HBT đã tạo mọi đIều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em
thực tập và hoàn thành bài viết này.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
4
Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng
tín dụng ngắn hạn
1. Tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại.
1.1 Khái niệm về NHTM.
Thuật ngữ Ngân hàng có từ rất lâu, trước khi nền sản xuất hàng hoá ra
đời. Tuy nhiên, ngay từ đầu nó không mang cái tên Ngân hàng. Xuất phát từ
nhu cầu của cuộc sống và công việc buôn bán mà các thương gia đã lập ra
những nơi để đổi tiền, nhận tiền gửi và thu phí của người gửi, họ giúp chi trả
và thanh toán hộ người gửi và ba nghiệp vụ đầu tiên hình thành, đó là: đổi
tiền, nhận tiền gửi và thanh toán hộ. Lúc đầu người gửi tiền phải trả một
khoản tiền phí cho các thương nhân này, nhưng về sau do áp lực cạnh tranh
và do các khoản tiền gửi này sinh lợi nên các thương nhân này đã trả phí cho
người gửi để tăng khả năng huy động. Qua một thời gian các thương gia này
thấy rằng: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng trong két họ. Trong khi
đó một số thương gia buôn bán lại có nhu cầu vay. Vì vậy họ cho vay để kiếm
thêm lợi nhuận, chính là mầm mống xuất hiện những nghiệp vụ nền tảng của
NHTM.
Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến, mà liên tục
phát triển theo các điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân
hàng càng ngày càng phát triển, đã tạo một nghành công nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ, đó là NHTM. Nền kinh tế càng ngày càng phát triển, nhu
cầu ngày càng phong phú và được nâng cao, chính vì vậy bên cạnh những
nghiệp vụ cơ bản, NHTM đã cho ra đời nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ bảo
lãnh L/C, nghiệp vụ thuê mua, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, chiết khấu
hối phiếu…
Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới đó là Banca di
Baralone(1401) và Banca di Valencia(1409) cả hai đều ở Tây Ban Nha.
Mặc dù NHTM ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà kinh
tế vẫn chưa nhất trí với nhau về dịnh nghĩa ngân hàng bởi do sự khác biệt về
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
5
luật pháp, số lượng các nghiệp vụ, bối cảnh kinh tế, xã hội của các vùng khác
nhau…
Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của
ngân hàng. Cùng với các ngân hàng, kinh doanh và làm dịch vụ còn có những
tổ chức tài chính kinh doanh những loại hình tương tự như công ty bảo hiểm
các loại, các hiệp hội tiết kiệm cho vay , các quỹ hưu trí, các tổ chức tín dụng
tiêu dùng, các quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên trong bất cứ
nước nào trên thế giới, thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức tài chính lớn
nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh tiền tệ.
Việt Nam, theo pháp lệnh “ NH, HTX tín dụng và công ty tài chính” ban
hành ngày24/05/1990 thì “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán”. Còn theo luật các tổ chức tín dụng ban
hành26/12/1997 NHTM là một doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng đó là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng ra đời ở nước ta năm1951 với tên gọi “Ngân hàng quốc gia
Việt Nam”. Sự ra đời ngân hàng Việt Nam mang nét đặc trưng riêng biệt:
Ngân hàng nhà nước ra đời vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức
năng của NHTM( ngân hàng một cấp). Cho đến 26/03/1988, nghị định
53/HĐBT quyết định chia hệ thống ngân hàng Việt Nam thành 2 cấp, tách
bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ(Ngân hàng nhà nước) và chức
năng kinh doanh tiền tệ(Ngân hàng thương mại). Trong những năm qua cùng
với sự phát triển của đất nước, nghành ngân hàng đã có những phát triển vượt
bậc góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành ngân hàng ngày càng
hiện đại về công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tham gia rộng rãi
vào thị trương tiền tệ trong khu vực và quốc tế.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
6
1.2 Chức năng của NHTM.
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó.
Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác
nhau, nhưng nhìn chung có các chức năng sau:
1.2.1 Chức năng tạo tiền.
Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa
một khối lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm
bảo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá
nhu cầu của nền kinh tế sẽ gây ra lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một
lượng tiền cung ứng ban đầu, thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay
của hệ thống NHTM đã làm tăng lượng tiền cung ứng so với ban đầu. Đây là
chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền. Và thông qua chức năng
này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình như dự trữ bắt buộc,
lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia nhằm
đưa ra một khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền.
1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh
toán giữa các tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được
chi phí cho họ cũng như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán
qua ngân hàng được thực hiện tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao.
Và cũng qua hoạt động thanh toán NHTM thu được những lợi ích nhất định.
Ngày nay hoạt động thanh toán ngày càng phát triển tại các NHTM. Việc
thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân hàng khuyến khích.
1.2.3 Hoạt động huy động tiền gửi.
Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến
hành đã tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy
động vốn này giúp cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền
kinh tế. Tạo ra thu nhập cho người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy
động vốn của ngân hàng mang lại. Những người gửi tiền vào NHTM sẽ được
nhận tiền lãi, tạo thu nhập cho những khoản tiền nhàn rỗi của họ. Ngày nay để
huy động được nhiều tiền gửi, NHTM đã phát triển rất nhiều loại tiền gửi
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
7
khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi
tiết kiệm…
1.2.4 Hoạt động tín dụng.
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho
NHTM, duy trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu
dài của NHTM. NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối
với nền kinh tế, nhằm giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với
việc cho vay này NHTM đã tạo cho sự phát triển kinh tế được thông suốt và
hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn vốn vay từ ngân hàng thì rất nhiều doanh
nghiệp không thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh được. Hầu như mọi
doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động cho
vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay. Càng cho vay được
nhiều thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều
rủi ro, vì vậy việc nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu, sống
còn trong hoạt động kinh doanh của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao
vừa an toàn, hiệu quả.
1.2.5 Tài trợ hoạt động ngoại thương
ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất
nhập khẩu giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc
tế cũng như những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo
thanh toán cho các doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra
phải có đủ khả năng và uy tín như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM
giúp cho các doanh nghiệp có hoạt động đối ngoại thực hiện việc thanh toán
được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là giảm được chi phí cho họ. Ngoài ra
NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp cho các doanh nghiệp có thể
thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động ngoại thương. Cụ thể
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền, hối phiếu…
1.2.6 Hoạt động bảo lãnh.
Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và
uy tín vượt qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả.
Vì vậy các doanh nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
8
họ ký kết hoạt động thực hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt
cho các doanh nghiệp bởi NHTM có tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác,
NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ, nghiệp vụ giúp cho doanh nghiệp quản
lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh cho các doanh nghiệp là khách
hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại lợi ích cho cả hai bên:
NHTM và doanh nghiệp.
Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo
đảm an toàn vật có giá…
1.3 Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại.
1.3.1 Nghiệp vụ nợ
hoạt động của NHTM dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động còn nguồn
vốn tự có của NHTM là rất nhỏ, nó chỉ là tấm đệm để hạn chế những rủi ro.
Số vốn huy động tại các NHTM chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác
nhau như: lãi suất, tình hình kinh tế xã hội, cách thức gửi tiền và trả lãi, phong
tục tập quán, địa điểm và thái độ phục vụ của ngân hàng..
Các hình thức huy động bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, có hoặc
không có lãi suất. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của
ngân hàng phục vụ cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy
có chi phí thấp nhưng chứa đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc
nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung
trên thế giới vì người dân nước ta vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong
lưu thông.
- Tiền gửi tiết kiệm: Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng lãi
suất. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không
có kỳ hạn. Các kỳ hạn do sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình
thức tiền gửi khác và ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà
còn có nhiều hình thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
9
trên thị trường tiền tệ, vay từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy
nhiên, các hình thức này không thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những
trường hợp nhất định, bởi chứa đựng trong đó ràng buộc và điều kiện.
1.3.2 Nghiệp vụ có.
Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng dùng vốn huy
động được cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của
mình nhằm tạo ra nguồn thu nhập. Nghiệp vụ có của ngân hàng thể hiện ở các
hoạt động sau:
- Hoạt động ngân quỹ: Mỗi ngân hàng đều phải giữ lại một khoản
tiền tại két của Ngân hàng để phòng những trường hợp rút tiền của người gửi,
tránh được những rủi ro về thanh toán. Nên có thể nói hoạt động này đảm bảo
cho khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng. Khoản tiền bảo đảm
khả năng thanh toán của ngân hàng có thể là tiền tại két, tiền gửi NHTW,
chứng khoán, tiền mặt trong quá trình thu. Đó là những tài sản có tính thanh
khoản cao. Những tài sản này không sinh lời hoặc sinh lời thấp. Vì vậy, ngân
hàng phải điều chỉnh lượng dự trữ này sao cho hợp lý để đảm bảo khả năng
sinh lời cao, vừa đảm bảo khả năng thanh toán tốt.
- Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của ngân hàng, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 –
70%. Mặt khác, đây cũng là hoạt động nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có thể
nói hoạt động tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất, do đó để thực hiện có hiệu
quả hoạt động này các ngân hàng phải có những biện pháp để hạn chế những
rủi ro bằng cách quản lý chặt chẽ các khoản cho vay.
- Hoạt động thuê mua: Đây là hoạt động còn khá mới mẽ ở Việt
Nam. Đây là hình thức cung cấp tài chính cho khách hàng dưới hình thức
thuê. Hoạt động này cũng là một hình thức cấp tín dụng, nhưng nó có điểm
khác biệt là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê. Chỉ đến khi kết thúc hợp
đồng. Người thuê có quyền mua lại tài sản có ở mức giá thoả thuận giữa hai
bên, ấn định từ khi hợp đồng này.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp: Bên cạnh các hình thức đầu tư gián
tiếp bằng cách cấp tín dụng ở trên, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
10
vào một công trình…Hoạt động này một mặt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng,
mặt khác giúp bổ trợ cho các hoạt động khác bởi đa dạng hoá giảm rủi ro.
Cùng với việc nắm giữ chứng khoán, ngân hàng có thể đảm bảo cho khả năng
thanh toán của tài sản có sinh lời.
1.3.3 Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài 2 nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ
khác cho khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với ngân
hàng. Ngày nay, hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân
hàng. Các hoạt động trung gian bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán và cung cấp phương tiện thanh toán:
Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán hộ cho khách hàng và phát hành
các phương tiện nhằm phục vụ cho thanh toán như: UNC, UNT, Sec, L/C…
- Dịch vụ môi giới: Ngân hàng tổ chức mua bán, lưu ký, bảo quản
chứng khoán cho ngân hàng. Tại Việt Nam, các ngân hàng thành lập ra các
công ty chứng khoán để thực hiện hoạt động này.
- Dịch vụ ngân quỹ: Ngày nay, khi mà thị trường không dùng tiền
mặt thì hoạt động này ngày càng phát triển rộng. Ngân hàng đứng ra thu hộ và
phát tiền mặt cho khách hàng.
- Dịch vụ chuyển tiền: Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật thì dịch
vụ này ngày càng được nhiều người sử dụng.
- Dịch vụ bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tổ chức của mình, ngân
hàng đứng ra bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay
vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
- Dịch vụ tư vấn: Cung cấp thông tin và hỗ trợ về mặt chuyên môn
cho khách hàng.
- Dịch vụ bảo quản.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
11
2. Lý luận chung về tín dụng
2.1. Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán
chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với
nhau như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong
một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó.
Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung:
Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái
hay còn ngọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể
dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc,
thiết bị bất động sản.
Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời
gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi vay
phải hoàn trả cho người cho vay.
Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người
đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá
hoặc tiền tệ và lãi suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ
nguyên tắc : Lãi suất cho vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro
và chi phí cơ hội. Người cho vay phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền.
Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó
một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời
gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần
tài sản đã mượn cộng thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín
nhiệm. Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác
tin tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự
cho vay có hứa hẹn thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
12
nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động
tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín
dụng đã hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín
dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm
chí còn tồn tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng