Sau nhiều thập kỷ xây dựng và phát triển kinh tế, Việt Nam đang trong 
quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế đang dần dần khởi sắc: Tốc 
độ tăng trưởng ngày càng cao, lạm phát được kiềm chế, sản xuất phát triển, đời 
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hoà nhịp vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Đất nước, hệ thống 
ngân hàng Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, hiện đại hoá trong quản 
lý và hoạt động nghiệp vụ nhằm xứng đáng là Trung tâm của hệ thống tiền tệ 
quốc gia. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn từ nội bộ 
nền kinh tế và bên ngoài. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế có ý nghĩa rất quan 
trọng, đó là tiền đề là điều kiện để có thể tiếp nhận và sử dụng các nguồn vốn 
bên ngoài đạt hiệu quả đồngthời để tăng thêm tính độc lập tự chủ của nền kinh 
tế.
Hiện nay, ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc, thiết 
bị công nghệ lạc hậu.và đang rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài để cải tiến, 
nâng cao chất lượng sản xuất. Mặc dù thị trườngchứng khoán Việt Nam ra đời, 
đã tạo kênh dẫn vốn trực tiếp tới các doanh nghiệp và xã hội. Nhưng vai trò của 
Ngân hàng Thương mại trong việc đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế 
vẫn chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính 
trong nền kinh tế. Cho nên hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Thương mại ảnh 
hưởng lớn đến hiệu quả của nền kinh tế.
Sở giao dịch I NHNo&PTNT Việt Nam đã và đang tích cực tìm kiếm, 
triển khai các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, xây dựngcơ cấu 
nguồn vốn hợp lý, khai thác tiềm năng về vốn để đảm bảo nguồn vốn ổn định, từ 
đó, sử dụng vốn có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu đặt ra cho Ngân hàng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 92 trang
92 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả Sử dụng vốn tại Sở giao 
dịch I NHNo&PTNT Việt Nam 
 2 
Lời nói đầu 
Sau nhiều thập kỷ xây dựng và phát triển kinh tế, Việt Nam đang trong 
quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế đang dần dần khởi sắc: Tốc 
độ tăng trưởng ngày càng cao, lạm phát được kiềm chế, sản xuất phát triển, đời 
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. 
Hoà nhịp vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Đất nước, hệ thống 
ngân hàng Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, hiện đại hoá trong quản 
lý và hoạt động nghiệp vụ nhằm xứng đáng là Trung tâm của hệ thống tiền tệ 
quốc gia. Sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải có sự đầu tư rất lớn từ nội bộ 
nền kinh tế và bên ngoài. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế có ý nghĩa rất quan 
trọng, đó là tiền đề là điều kiện để có thể tiếp nhận và sử dụng các nguồn vốn 
bên ngoài đạt hiệu quả đồng thời để tăng thêm tính độc lập tự chủ của nền kinh 
tế. 
Hiện nay, ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp có vốn nhỏ, máy móc, thiết 
bị công nghệ lạc hậu...và đang rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài để cải tiến, 
nâng cao chất lượng sản xuất. Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời, 
đã tạo kênh dẫn vốn trực tiếp tới các doanh nghiệp và xã hội. Nhưng vai trò của 
Ngân hàng Thương mại trong việc đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế 
vẫn chiếm vị trí rất quan trọng. Hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính 
trong nền kinh tế. Cho nên hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Thương mại ảnh 
hưởng lớn đến hiệu quả của nền kinh tế. 
Sở giao dịch I NHNo&PTNT Việt Nam đã và đang tích cực tìm kiếm, 
triển khai các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, xây dựng cơ cấu 
nguồn vốn hợp lý, khai thác tiềm năng về vốn để đảm bảo nguồn vốn ổn định, từ 
đó, sử dụng vốn có hiệu quả là mục tiêu hàng đầu đặt ra cho Ngân hàng. Sự phát 
 3 
triển của Ngân hàng là sự đóng góp, khích lệ vào sự nghiệp công nghiệp hoá - 
hiện đại hoá đất nước. Toàn thể ban lãnh đạo Ngân hàng cũng như đội ngũ cán 
bộ công nhân viên chức đang cố gắng không biết mệt mỏi khắc phục những khó 
khăn để hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao. 
Sau một thời gian thực tập tại Sở giao dịch I NHNo&PTNT Việt Nam, 
được sự giúp đỡ của ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên phòng kinh doanh và sự 
hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Vũ Duy Hào, em đã nghiên cứu đề tài “ Giải 
pháp nâng cao hiệu quả Sử dụng vốn tại Sở giao dịch I NHNo&PTNT Việt 
Nam ”. 
Nội dung gồm ba phần chính: 
 Chương I. Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng 
Thương mại. 
 Chương II. Thực trạng hiệu quả Sử dụng vốn tại Sở giao dịch I 
NHNo&PTNT. 
 Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả Sử dụng vốn tại Sở giao dịch I 
NHNo&PTNT. 
 4 
Chương I 
Cơ sở lí luận về hiệu quả sử dụng vốn 
của Ngân hàng thương mại . 
 1.1. Khái quát về Ngân hàng Thương mại. 
1.1.1. Khái niệm - Đặc điểm của Ngân hàng thương mại. 
1.1.1.1. Khái niệm. 
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu 
dài. Ngay nửa đầu thế kỷ 16, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân hàng đầu tiên mà 
tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này, ngân hàng phát 
triển ở trình độ thấp, hoạt động của ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ 
tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động 
của ngân hàng thương mại cũng được từng bước được củng cố và hoàn thiện, 
chuyển hoá dần theo hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay chưa có một khái niệm 
thống nhất về ngân hàng thương mại do các nhà kinh tế nhận thấy có những khó 
khăn trong việc định nghĩa “ngân hàng”, bởi quan niệm về ngân hàng thay đổi 
trong không gian (tập quán và phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo 
đà tiến triển kinh tế-xã hội). Theo một số chuyên gia về ngân hàng trên thế giới 
thì ngân hàng trong nền kinh tế trên thị trường được quan niệm là “Ngân hàng là 
một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ 
theo pháp luật theo đuổi mục tiêu lợi nhuận” . Theo luật các tổ chức tín dụng của 
Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, 
kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín 
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh 
khác có liên quan. Theo tính chất và hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm 
ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính 
sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”. 
 1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng Thương mại. 
 5 
Tuy nhiên để hiểu rõ hơn khái niệm về ngân hàng thương mại chúng ta 
cần xem xét đặc điểm của ngân hàng thương mại. Trước hết, hoạt động ngân 
hàng thương mại là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận 
là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh doanh tiền tệ và 
dịch vụ ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở 
nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho 
khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Ngân hàng 
thương mại là người “đi vay để cho vay” nhằm mục đích kiếm lời. Các hoạt 
động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp cụ sẵn có về tiền 
tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện công việc nhất định 
cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ 
hoặc hoa hồng. 
Hai là, hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo quy định của 
pháp luật, nghĩa là chỉ khi ngân hàng thương mại thoả mãn đầy đủ các điều kiện 
khắt khe do pháp luật qui định như điều kiện về vốn, phương án kinh doanh...thì 
mới được phép hoạt động trên thị trường. 
Ba là, hoạt động ngân hàng thương mại là hình thức kinh doanh có độ rủi 
ro cao hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng 
sâu sắc tới các ngành khác và cả nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là do trong hoạt động 
ngân hàng đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ do các ngân hàng tiến hành 
huy động vốn của người khác rồi đem vốn đó để cấp tín dụng cho khách hàng 
theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời gian nhất định, nên đã tạo rủi 
ro cho các hoạt động ngân hàng thương mại. Rủi ro đến từ phía ngân hàng, 
khách hàng vay tiền, rủi ro đến từ những yếu tố khách quan. Bởi vậy, ngân hàng 
thương mại phải đối mặt với rủi ro cao, kéo theo là rủi ro đối với những người 
gửi tiền ở ngân hàng thương mại cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Để tránh 
rủi ro đáng tiếc xảy ra, nhằm kiểm soát, làm giảm nhẹ những tổn hại do ngân 
 6 
hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia dặt ra những đạo luật riêng, nhằm 
đẩm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn, hiệu quả trong nền kinh tế 
thị trường. 
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 
Tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức 
năng của nó. Các nhà kinh tế học đã ví ngân hàng thương mại là trái tim của nền 
kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế các nguồn vốn nhàn rỗi được 
khơi thông đưa tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình lưu chuyển tiền 
tệ một cách hiệu quả. Các chức năng của ngân hàng thương mại có thể được nêu 
ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng bao gồm ba chức năng chủ yếu: chức 
năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, chức năng tạo tiền của ngân 
hàng thương mại. 
1.1.2.1. Ngân hàng Thương mại - trung gian tín dụng 
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và 
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực 
hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng là “cầu nối ” giữa cung và cầu 
vốn trong nền kinh tế, khơi nguồn vốn từ những người có vốn nhàn rỗi sang 
những người có nhu cầu về vốn. 
Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào thời 
điểm khác nhau là khác nhau, gây ra hiện tượng thừa, thiếu tạm thời. Ngân hàng 
Thương mại là người trung gian có vai trò chuyển đổi kỳ hạn nợ, thay đổi thời 
kỳ đáo hạn của các khoản, món nợ. 
Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời 
nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt 
khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu 
cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, của các chủ thể kinh tế góp phần đảm 
bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng 
 7 
kinh tế. Như vậy, Ngân hàng Thương mại vừa là người đi vay, vừa là người cho 
vay. 
Ngày nay, quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự 
phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện các khía cạnh khác của chức 
năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty (khi phát hành cổ 
phiếu) với những nhà đầu tư: Chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng 
khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu công ty. Theo cách này Ngân hàng làm 
trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Hơn nữa, tín 
dụng ngân hàng là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố 
định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng Ngân hàng góp phần điều hoà vốn trong 
nền kinh tế, đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh liên tục, là cầu nối giữa tiết 
kiệm, tích luỹ và đầu tư. Đưa vật tư hàng hoá vào sản xuất lưu thông, mở rộng 
nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. 
Chức năng tín dụng của Ngân hàng Thương mại được hình thành rất sớm, 
ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại. Ngày nay, thông qua chức 
năng trung gian tín dụng, Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức 
năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được 
mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, cải thiện đời sống 
nhân dân. 
 1.1.2.2. Ngân hàng Thương mại-trung gian thanh toán. 
Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát triển đến 
tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như trước, mà còn 
quản lý các phương tiện thanh toán. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất 
quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật. ở các 
nước phát triển, phần lớn các công tác thanh toán ở trong nước được thực hiện 
thông qua séc và phần lớn séc thanh toán ở trong nước được thực hiện bằng 
 8 
thanh toán bù trừ thông qua hệ thống Ngân hàng Thương mại. Với phương pháp 
công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị đầy đủ các máy vi tính 
và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện, thanh toán bù trừ được nhanh 
chóng giảm bớt chi phí và có độ chính xác cao. Quá trình lưu thông chuyển vốn 
từ tài khoản người mua sang tài khoản người bán có một đặc điểm phi vật chất. 
Bằng chứng là ở các nước, công nghiệp phát triển sử dụng hình thức chuyển tiền 
bằng điện tử là chuyện bình thường. Họ thanh toán bằng nối mang các máy vi 
tính của các Ngân hàng Thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ 
tài khoản người mua sang tài khoản người bán một cách nhanh chóng tiện lợi. 
Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, 
đẩy nhanh tốc luận chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. 
1.1.2.3. Chức năng tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng hai 
cấp. 
Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các Ngân 
hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó Ngân 
hàng Trung ương là cơ quan quản lý, về tiền tệ tín dụng là Ngân hàng của các 
Ngân hàng còn các Ngân hàng Thương mại, chuyên kinh doanh tiền tệ. 
Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo ra 
bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt động Ngân 
hàng; Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và 
đầu tư của Ngân hàng Thương mại trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào Ngân hàng 
trung ương. Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng, Ngân hàng Thương mại có 
khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là 
tiền bút tệ, tiền chuyển khoản Ngân hàng Thương mại trở thành người cung ứng 
tiền bút tệ quan trọng, trong nền kinh tế. 
 9 
Với hàng loạt các nhân tố tác động ảnh hưởng đến quá trình tạo tiền, các 
nhà kinh tế đường thời đã đưa ra nhiều côg thức hoàn chỉnh. Chẳng hạn như 
công thức sau của giáo sư người Pháp ...P.F. LEHAMAN. 
Số nhân tiền gửi mở rộng =
rba 
1 
Trong đó: 
a: Tỷ lệ dự trữ pháp định. 
b: Tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi thanh toán 
r: Tỷ lệ dự trữ dư thừa trên tiền gửi thanh toán không vay hết. 
Tiền gửi mở rộng = 
rba 
1 x tiền gửi ban đầu. 
Tóm lại, khả năng tạo tiền là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một 
Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần, 
thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, tín dụng nhiều Ngân hàng. 
Khả năng này tạo ra "bội số mức cung tiền tệ" liên quan chặt chẽ với việc công 
cụ dự trữ bắt buộc, của Ngân hàng trung ương. Chính vì vậy các bút tệ thực sự 
thúc đẩy sự phát triển kinh tế mà cũng có thể gây nên những tai hoạ lớn. Đây là 
nhân tố cơ bản trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng Thương mại. 
Từ ba chức năng cơ bản trên ta cũng có thể thấy được vai trò to lớn của 
Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Hoạt động của Ngân hàng Thương 
mại đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch và tạo môi trường 
thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn của nền kinh tế, nâng cao chất lượng của 
quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn. Ngân hàng Thương mại còn là bộ 
máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ và 
 10 
góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự tác động của Ngân hàng Trung 
ương và các chính sách của Nhà nước. 
1.1.3. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại. 
Cùng với sự phát triển của Ngân hàng Thương mại, hoạt động và các dịch 
vụ của Ngân hàng Thương mại ngày càng được mở rộng. Nhưng nhìn chung, 
hoạt động của Ngân hàng Thương mại gồm ba hoạt động chính là hoạt động 
động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian. 
* Hoạt động huy động vốn : Là hoạt động khởi đầu cho các hoạt động 
khác của ngân hàng thương mại. Ngân hàng Thương mại bản chất là một tổ chức 
trung gian tài chính có đặc điểm hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn 
chủ sở hữu, vì vậy để có nguồn vốn hoạt động, cung cấp vốn cho nền kinh tế thì 
ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, ngân hàng thương mại phải huy động những nguồn 
vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua các hoạt đông nhận tiền gửi, 
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hay từ Ngân 
hàng Trung ương. 
* Hoạt động sử dụng vốn: Sau khi huy động vốn, để bù đắp được chí phí 
huy động vốn và có lợi nhuận thì ngân hàng thương mại pahỉ tìm cách sử dụng 
có hiệu quả các nguồn vốn này để thu lãi. Đây là hoạt động chủ yếu và đem lại tỷ 
trọng thu nhập lớn nhất cho Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Thương mại sử 
dụng vốn theo các hướng cơ bản là hoạt động tín dụng, đầu tư chứng khoán, đầu 
tư mua sắm tài sản cố định và trang thiết bị, hoạt động ngân quỹ trong đó hoạt 
động tín dụng là quan trọng nhất bởi nó đem lại phần lớn thu nhập cho ngân 
hàng. 
* Các hoạt động trung gian của ngân hàng thương mại bao gồm hoạt động 
thanh toán, hoạt động quản lý tài sản cho khách hàng, hoạt động phát hành 
 11 
chứng khoán, hoạt động mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động cung cấp 
thông tin, tư vấn kinh doanh và quản trị doanh nghiệp… Các hoạt động trung 
gian này không phải đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng thương mại 
nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng hoạt động huy động và sử 
dụng nguồn vốn, đồng thời đa dạng hoá hoạt động, giảm bớt rủi ro và tăng thu 
nhập cho ngân hàng. 
Trên đây là ba nhóm hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, mỗi 
hoạt động có những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt 
chẽ và bổ sung cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị ngân hàng, không được 
coi nhẹ hoạt động nào mà phải luôn đặt mối quan hệ giữa chúng trong khi đề ra 
chiến lược cũng như lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả trong hoạt 
động. 
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng Thương mại . 
Để hiểu xem một Ngân hàng Thương mại (NHTM) hoạt động như thế nào 
chúng ta phải xem xét đến bản quyết toán tài sản của Ngân hàng đó, là bản kê tài 
sản có và tài sản nợ cuả nó. Bảng quyết toán này liệt kê các kết số, tức là nó có 
đặc trưng. 
Tổng tài sản có = Tổng tài sản nợ + vốn. 
Hơn nữa, bảng quyết toán tài sản một Ngân hàng liệt kê các nguồn vốn 
của Ngân hàng (tài sản nợ) và sử dụng vốn (tài sản có). Các Ngân hàng bằng 
nhiều cách để huy động vốn. Sau đó họ dùng vốn này có được tài sản có. 
- Bảng quyết toán của tất cả các Ngân hàng Thương mại thường có kết cấu 
dưới dạng sau: 
 12 
 Tài sản có (sử dụng vốn) Tài sản nợ (nguồn vốn) 
1. Khoản mục dự trữ 1. Khoản mục tiền gửi 
2. Khoản mục CK ngắn hạn 2. Khoản mục đi vay 
3. Khoản mục cho vay 3. Các loại vốn uỷ thác 
4. Khoản mục đầu tư 4. Vốn sở hữu của Ngân hàng 
5. Các tài sản có khác 
6. TSCĐ tích lũy 
1.2.1. Nguồn vốn tại Ngân hàng Thương mại 
1.2.1.1. Nguồn vốn tiền gửi 
Nguồn vốn tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất chiếm bộ phận lớn trong 
tổng số nguồn vốn của NHTM, thường chiếm khoảng 50 - 60% nhưng hiện nay 
tỷ lệ này đang giảm dần. 
Theo tính chất giao dịch việc huy động vốn chia làm loại: Tiền gửi giao 
dịch và tiền gửi tiết kiệm và nó có thể được chia thành dạng ngắn hạn, trung hạn 
và dài hạn. Nguồn vốn nằm trên tài khoản thanh toán và tiết kiệm không kỳ hạn 
là khá lớn bởi vì nó phục vụ cho nhu cầu thanh toán giao dịch trong nền kinh tế. 
Đặc điểm của nguồn vốn này thường là ngắn hạn, không ổn bởi vì khách hàng có 
thể rút tiền trên tài khoản bất kỳ lúc nào họ có nhu cầu. Ngân hàng sử dụng vốn 
phải đối phó với rủi ro thanh khoản hoặc sự ứ đọng vốn nhưng ngược lại chi phí 
sử dụng nó rất thấp. Việc huy động nguồn vốn tiền gửi phụ thuộc nhu cầu thanh 
toán của từng cá nhân. Ví dụ như những ngày giáp Tết hay Noel, nhu cầu chi 
tiêu lớn, khách hàng thường đến Ngân hàng để rút tiền. Lãi suất cũng có yếu tố 
 13 
quan trọng có tính cạnh tranh lớn, nhất là trong thời kỳ khan hiếm tiền tệ. Sự thu 
hút nguồn tiền gửi phụ thuộc vào mức độ đa dạng hoá dịch vụ trình độ công 
nghệ Ngân hàng hiện đại tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng. Uy tín, thâm niên, 
sự giao tiếp lịch sự của đội ngũ cán bộ công nhân viên ảnh hưởng khả năng huy 
động tiền gửi của Ngân hàng. Ngoài ra khả năng sử dụng vốn như khả năng cho 
vay, khả năng đầu tư sẽ ảnh hưởng gián tiếp trong việc huy động nguồn vốn. 
1.2.1.2. Nguồn vốn đi vay 
Ngân hàng Thương mại có thể đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng khác 
có thể vay trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ. 
Khi Ngân hàng Thương mại vay vốn từ NHNN nhằm đảm bảo khả năng 
thanh toán, đáp ứng nhu cầu thanh khoản, đáp ứng nhu cầu cấp tín dụng cho các 
tổ chức tín dụng trong nền kinh tế. Trong trường hợp Ngân hàng Thương mại 
gặp khó khăn và có khả năng phá sản mà ảnh hưởng đến hệ thống Ngân hàng, 
NHNN có thể cho vay. Khi NHNN cho Ngân hàng Thương mại vay dựa vào các 
chứng khoán (chứng khoán cầm cố, chứng khoán chiết khấu), và chỉ cho vay tối 
đa 70% giá trị thực tế của chứng khoán đó. Chi phí để có khoản vốn này là khá 
lớn, ảnh hưởng đến kế hoạch của Ngân hàng, nhất là lợi nhuận, nên đây là giải 
pháp cuối cùng Ngân hàng mới huy động. 
Các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng luôn là người bạn 
đồng hành, người bạn hàng của nhau. Khi một Ngân hàng cần một nguồn vốn 
trung và dài hạn hay một dự án lớn đem lại lợi nhuận cao Ngân hàng Thương 
mại thường đi vay tức thời với lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng. Hoặc hai 
Ngân hàng Thương mại thuộc hai nước có, thời gian làm việc ngược nhau 
thường ký kết hợp đồng tín dụng qua đêm để tận dụng nguồn vốn tuy nhiên cách 
làm này chi phí hơi cao vì lãi suất tín dụng